Văn Hóa_Tín Ngưỡng
27/11/2020 - 6:01 PMLê Công 696 Lượt xem

VIỆC CẢI TÁNG
Sau khi chôn cất lần đầu từ năm đến mười năm, thi thể đã mục rữa hết phần da thịt, chỉ còn lại bộ xương, người ta chọn ngày tốt thường là vào mùa thu, tổ chức làm lễ “cải táng”. Đào huyệt lên, bốc hài cốt đặt theo thứ tự đầu, mình, tay chân. Dùng rượu trắng để lau chùi sạch sẽ xương cốt. Theo đúng thứ tự xương chân ở dưới dần lên đến đầu, mặt xếp vào trong một cái hủ gọi là “kim tháp” hay “kim anh”. Quá trình này gọi là “chấp cốt” nắm giữ xương. Kim tháp có chiều cao khoảng 80 cm, phần giữa rộng, đường kính 50 cm, miệng và đáy hẹp. Bỏ xương vào tháp xong, trên miệng dùng tấm ngói đậy kín lại. Lưu ý là việc cải táng này tránh những năm “đại sinh nhật” 61, 71 tuổi của người con trai trưởng. Tháp này được đặt tạm ở chân núi, bên phía mặt trời mọc, chờ rước thầy tìm được huyệt địa tốt rồi mới chôn và xây mộ chính thức. Lần này, khi chôn nhớ phải chừa phần trên của tháp ló lên khỏi mặt đất thường. Nhờ huyệt tốt mà con cháu mới được hưởng phúc lành.
Kim tháp 2
Sau khi chọn được huyệt địa tốt rồi, thầy phong thủy còn phải tiến hành một số động tác chuyên môn như: dùng la bàn chọn phương hướng, xác định sơn thủy …gọi là khai kim tỉnh, rồi mới chôn kim tháp xuống đó.
Thông thường thì mỗi huyệt chỉ chôn một kim tháp, đôi khi cũng có trường hợp chôn chung hai tháp của vợ chồng nam tả nữ hữu, hoặc cá biệt có nhà chôn hết cả thân tộc vào một huyệt. Đây gọi là “lần chôn cất thứ hai”.
Bốc cốt
Lúc đã chôn xong tục gọi là Phong mộ đỉnh hay Viên phần, người ta dùng những loại đá kết dính theo xưa, nay dùng xi-. măng để xây tiếp thành hình “móng ngựa”, trước thấp sau cao, mặt trước có tấm mộ bia. Loại đá làm mộ bia này có nhiều loại, một là dùng đá hoa cương tại địa phương để tạc khắc, hai là đá nham mặc từ Quảng Đông chở tới, hoặc các loại vân thạch từ tỉnh khác chuyển đến, cũng có chỗ lấy đá nhuyễn trộn xi măng mà đổ khuôn v.v…
*.  Nội dung của bia thường là:
-. phần đầu ghi địa danh nơi chôn cất, có khi kèm theo hình ảnh.
-. phần giữa ghi họ tên người mất hiển khảo của ông và hiển tỷ của bà, năm sinh và ngày tháng năm mất.
Số chữ ghi trên mộ bia phải lưu ý thứ tự “sinh, lão, bệnh, tử” chỉ chọn sinh mà làm chứ không được tùy ý ghi bừa theo sở thích.
-. phần cuối ghi họ tên người đứng ra lập mộ, nếu là con cháu đông thì chỉ ghi người trưởng nam làm đại diện thôi. Ngày tháng năm lập mộ.
Những chi tiết này rất quan trọng cho việc truy tìm gia phả, lai lịch họ tộc hay lịch sử địa phương về sau, cho nên phải cố gắng ghi đầy đủ mới được.
Loại mộ địa này được gọi là “Phong Thủy Địa”. Bên cạnh mộ nam tả nữ hữu cách khoảng hai ba thước mét, người ta có đắp một gò đất nhỏ, cắm bia ghi là “Hậu Thổ” hoặc bia bằng đá, tức là Thần Thổ Địa sở tại, có nhiệm vụ bảo vệ mồ mã ở đó.

Dân gian tin rằng, linh hồn con người là “một cái gì” bất diệt. Con người có “ba hồn bảy vía” hợp lại mà thành người sống. Lúc chết, chỉ có bảy vía theo thi thể mà tan rã vào đất, còn ba hồn thì rời khỏi xác thân, bay về “một không gian nào đó”. Linh hồn này có khả năng phù hộ cho con cháu được bình yên phát đạt, nên người ta luôn luôn kính sợ.
Con người chưa có cách gì tiếp xúc và giải thích về “thế giới của người chết” một cách sáng tỏ, vã lại tâm lý ai ai cũng sợ chết, nên phát sinh ra những suy nghĩ, hành vi có tính chất “theo tốt tránh xấu” xu cát tỵ hung. Do đó, mới có những điều “nên và không nên” làm khi ma chay, gọi đó là lễ tục an táng người chết.
*.  Sách “Luận Ngữ” nói: “Sống có cái lễ của sống, chết có cái lễ của chết. Người gọi là con hiếu thảo, phụng sự cha mẹ có ba điều quan trọng: cha mẹ còn sống thì phải nuôi dưỡng, cha mẹ lúc chết thì phải chôn cất và cúng giỗ.Nuôi nấng cha mẹ thì cốt ở chỗ làm cha mẹ vui lòng, chôn cất thì cốt ở chỗ buồn thương, cúng giỗ thì cốt ở chỗ kính trọng”.

Đạo lý này đã thấm sâu vào đầu óc của con cái nhiều đời, trở thành “tiêu chuẩn đạo đức con người”.
Tang lễ là dịp để con cái thể hiện tinh thần đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, bày tỏ tình cảm thương mến người thân. Những nghi thức đặt ra cốt là để con cháu thể hiện sự bi ai thống khổ trong tâm thức ra ngoài trong giờ phút biệt ly kẻ còn người mất, đồng thời cũng mang tính giáo dục cho người sống về đạo hiếu thảo của con người.

NHỮNG PHƯƠNG THỨC AN TÁNG
1-. Hoả Táng
Chia làm hai loại:
a/-. Sau khi tẫn liệm vào quan tài, đưa đến lò thiêu để thiêu. Thiêu xong, thu thập tro cốt bỏ vảo hủ sành để chôn dưới đất hoặc an trí vào trong tháp
b/-. Đem xác đi thiêu xong rồi mới đem tro cốt về tẩn liệm. Lúc đem thi thể đi thiêu thì không cần nghi thức gì, sau khi tẩn liệm tro cốt thì mới cử hành nghi thức cáo biệt.
2-. Chiêu Hồn Táng
Người chết vì lý do nào đó mà không thể tìm được xác, thì cử hành nghi thức “Chiêu hồn táng”.
Trước hết, mời vị đạo sĩ đến địa điểm có liên quan đến cái chết, dùng rơm cỏ bện thành một hình nhân, làm mặt mày có đủ ngũ quan, thân thể mặc áo quần, chân mang giày vớ đàng hoàng. Cột hình nhân vào đầu một cây trúc, dùng vải trắng bọc bên ngoài một con gà trắng để tiếp dẫn linh hồn. Đạo sĩ làm phép chiêu hồn, khi gà trắng kêu lên tức hồn đã nhập vào hình nhân. Khi ấy cây trúc tự rung động, không thể kềm giữ đứng yên được.
Sau đó, đưa hình nhân vào trong một “linh thố” chòi nhỏ bên cạnh đường. Trong thố này có để hai cái ghế, một lớn một nhỏ, tục truyền rằng ghế lớn để ngồi, ghế nhỏ gác chân, vì hồn không thể để chân chạm đất được. Vị đạo sĩ tụng kinh cầu siêu độ cho vong linh xong, đốt cả linh thố lẫn hình nhân. Thu thập tro của hình nhân bỏ vào trong một cái hộp gỗ. Cử hành nghi thức an táng như bình thường. Đôi khi người ta cũng xây thành mộ để con cháu cúng bái.
Theo tục này thì con gà trắng sau khi làm lễ xong, tặng lại cho vị đạo sĩ. Chiêu hồn táng áp dụng cho những người bị chết trôi không tìm được xác, hoặc bị mất tích trong trận mạc …
Phong tục xưa có khi chỉ dùng một thẻ bài bằng bạc, trên có khắc tên họ tuổi tác, ngày mất của người chết, cắn lấy máu ngón tay của người thân lăn vào miếng bạc ấy, bỏ vào một cái hộp mà đem chôn cất.
Chiêu hồn táng
3-. Liệp Thất Táng
Một gia đình mà cùng lúc có hai cái tang hoặc trong một năm mà bị trùng tang, gọi là phạm “hung sát nặng”, phải dùng “hình nhân bằng cỏ” để làm đám tang mà hóa giải. Lời tục nói: “Có một thì có hai, có hai thì có ba, không có ba thì chẳng thành lễ”. Cho nên, nếu chẳng may đã bị trùng tang, sợ sẽ bị tiếp Tam Tang, dùng cỏ bện thành hình nhân, mời Đạo sĩ đến vẽ đủ ngũ quan, làm phép “khai quang” xong, cho mặc y phục của “người đã chết lần thứ hai”, đặt hình nhân này vào trong cái giỏ tre hoặc cho vào trong quan tài bằng giấy, cúng tế bằng một chén cơm và một quả trứng vịt. Thuê người mang tất cả ra ngoài xóm, bỏ ở cạnh đường đi. Phép này để trừ tam tang rất hiệu nghiệm. Cũng có người mang quan tài giấy này đến chôn ở nghĩa địa.
Ngoại trừ phép dùng hình nhân cỏ, người ta cũng dùng con gà trắng và con vịt để chôn mà làm phép hóa giải. Tục nói, gà trắng làm “phù” để giải, vịt để trấn yểm hung sát.
Giấy vàng bạc
Bàn vong
Thổ Táng
Sau khi gia đình đã chọn được nơi chôn cất, tang chủ nhờ một người bà con hoặc bạn bè tiến hành đi lấy huyệt.
Phẩm vật gồm có:
-. bộ tam sinh
-. trà ngọt
-. trái cây
để cúng tế Hậu Thổ rồi mới lấy huyệt.
*.  Khấn vái:

“Hôm nay là ngày…tháng…năm, tôi tên là …xin kính trình với Thần Hậu Thổ.
Nguyên có một vị mới qua đời, tên là …. tuổi….Nay xin phép được ký gởi hài cốt nơi đây, xin quí Thần cho phép lấy huyệt và xin Thần gìn giữ mộ phần về sau. Tấm lòng thành thiết bày phẩm vật kính dâng, xin Thần nhậm lễ và cho phép. Thượng hưởng”.
Động tác này gọi là “Khai triệu”, mục đích xin phép Thổ Địa Công để lấy huyệt.
Còn việc trình xin phép Thổ Địa để đào đất đắp nền nhà thì gọi là “Khai khoáng”
*.  Phẩm vật cúng tế trong trường hợp chọn đất xây mộ đúng theo phong thủy:
-. một con gà trống màu trắng
-. một ký thịt lợn sống
-. mười hai quả trứng vịt sống
-. mười hai con cá sống
-. hai lít gạo trắng
-. một bình rượu
-. một bình nước lạnh
-. một bịt tương hột
-. mười hai bịt bột gạo đỏ
-. một cây bút lông mới
-. một cái khăn mặt mới
-. một cặp đèn
-. một bịt nhang thơm
-. hai chén lớn ba chén nhỏ đựng rượu
-. giấy tiền vàng bạc các loại, mỗi thứ ba xấp thọ kim, phúc kim, tứ phương kim
Cúng vái Hậu Thổ như trên, đốt giấy tiền vàng bạc xong mới bắt đầu đào huyệt. Điều quan trọng là, đã chọn đào chỗ nào rồi thì phải lấy chỗ đó, tuyệt đối không nên thay đổi địa điểm khác sợ bị trùng tang.
*.  Hậu Thổ còn gọi là “Xả”, tên khác của Thổ Địa khi có chức năng gìn giữ mộ phần, nên trước khi lấy huyệt chôn cất, phải trình xin phép Ngài phù hộ.
*.  Khi di chuyển quan tài đến phần mộ, đặt quan tài nằm cao ở trên huyệt, phần chân phía trước, phần đầu phía sau Chú:chỗ này khác với phong tục của người Việt Nam là đầu trước chân sau. Người Hoa lạy ở đầu, người Việt lạy ở chân—NT
*.  Bày phẩm vật cúng tế Thổ Địa Hậu Thổ:
-. một bộ tam sinh hoặc ngũ sinh
-. một bình rượu
-. giấy tiền vàng bạc
-. tấm triệu viết tên tuổi người chết
-. lư hương, nhang, đèn
Đặt phía bên trái của huyệt mộ, khấn vái xin phép và trình với Thổ Địa.
*.  Bày phẩm vật cúng vong:
-. sáu dĩa rau tươi
-. một chén cơm trắng
-. một chén phát khỏa
-. rượu, trà
-. lư hương, nhang, đèn
-. giấy tiền vàng bạc
-. linh vị đặt ở giữa, lụa thắt hồn bạch và lá phan ở bên cạnh.
-. con trai quỳ bên mặt, con gái và cháu quỳ bên trái
Con cháu thắp hương cúng tế vong linh, lạy từ biệt .
-. quan khách đọc điếu văn nếu có
-. hiếu nam dâng ba chén rượu, người chấp sự bưng đến tưới lên quan tài.
-. con cháu nói lời cảm tạ quan khách, đọc văn tế nếu có.
-. trong thời gian ấy, cử người phụ trách đến khoan hai lổ nhỏ ở phía trước và phía sau quan tài. Động tác này gọi là “phóng phong” thông gió, cũng gọi là phóng thủy hay phóng thuyên = nhổ đinh chốt khóa mục đích là để cho không khí lọt vào bên trong quan tài, làm cho thi thể người chết mau bị phân hũy.
-. hạ huyệt, chỉnh sửa ngay ngắn, rút dây hạ và các món phụ tùng của nhà giàn.
-. con cháu và thân hữu ném hoa hay đất xuống huyệt để từ biệt
-. lắp huyệt nhớ đặt một ống thông hơi từ đáy huyệt lên trên mặt đất cho không khí vào
Sau khi hạ quan tài, đốt tấm triệu. Con cháu thỉnh vong, bưng linh vị, hình ảnh, lư hương về nhà để làm nghi thức “An sàng” lập bàn thờ vong.

HƯỚNG DẪN TANG LỄ
TẬP TỤC TẨN LIỆM VÀ LÀM ĐÁM TANG Ở

THƯƠNG GIA BUÔN BÁN

I-. TẨN LIỆM
1-. Báo tang:
Con, cháu gái đã có chồng ở nơi khác, khi nhận được tin báo cha, ông mất, phải lập tức thay đổi y phục hoại sắc không lòe loẹt, trở về nhà cha ông để thọ tang. Đến cổng nhà, phải quì xuống, khóc ba tiếng gọi là hành lễ “Khốc lộ đầu”.
Nhà có tang thì ngoài con cháu ruột trong nhà, còn phải tìm cách thông báo cho thân tộc. Nếu là tang mẹ thì phải báo cho bên ngoại biết. Ngày xưa, phải đích thân đến từng nhà báo tang, nay xã hội tiến bộ có thể dùng những phương tiện truyền thông để báo cũng được. Khi có tang mẹ, bên ngoại đến để xem xét tình hình cái chết của người mẹ để khỏi thắc mắc về sau. Con trai con gái phải ra cửa quì đón tiếp bên ngoại vào nhà. nếu là tang cha thì khỏi quì đón bên ngoại. Khi thân nhân đến viếng, không nên khóc lâu vì sợ con cháu xúc động gấp hai ba lần, đôi khi bất tỉnh không nên vào lúc này, trở ngại cho việc sắp đặt tang lễ.
2.  Quan Tài:
Do sáu miếng ván ghép lại mà thành. Tấm trên gọi là “thiên”, tấm đáy gọi là “địa”, hai bên trái phải gọi là “nhật nguyệt tường” bức tường trời trăng, bên trái là nhật, phải là nguyệt. Miếng trước đầu gọi là “đầu rùa”, miếng dưới chân gọi là “đuôi rùa”. Trước khi liệm thì gọi là “quan”, đã liệm xong thì trở thành “cũu”. Hiện ở Thương Gia buôn bán có hai hình thức quan tài, loại bản địa bằng gỗ, loại theo Âu Tây bằng pha lê trong suốt. Đất Thương Gia buôn bán rấy hạn chế, nên qui định chỉ cho phép chôn trong tám năm thì phải cải táng, đưa di cốt vào “công mộ”, để trống đất cho người sau chôn.
3.  Tiếp Bản Đón quan tài
Có bốn loại quan tài là: “giác, xuy, nhạc, âm”, chọn một loại theo ý thích, cho xe nhỏ chở đến nhà có tang. Động tác này tục gọi là “phóng bản”. Đến nhà, có con trai hay gái quì ngoài cổng đón tiếp, gọi là “tiếp bản”.
Lúc khiêng quan tài vào nhà, nhớ lưu ý phần đầu vào trước để khi liệm xong, đầu quay vào trong, chân quay ra ngoài cửa Khác với Việt Nam, đầu quay ra ngoài. Trước khi chở quan tài đến, thì dán hai mếng giấy đỏ ở cửa nhà hai bên, sau tang lễ thì gở ra bỏ.
Trước đây, tẩn liệm phải nhờ thầy chọn ngày giờ, tuổi kỵ …nay thì phải làm theo qui định luật pháp, không thể chờ lâu được.

4.  Chuẩn Bị Vật Phẩm Để Đón Quan Tài:–một đoạn ống tre tròn tượng trưng cho sự đoàn kết
-. một cây chổi nhỏ phất trần dùng để trừ tà.
-. thau chậu bằng kim loại để đựng tro đốt giấy vàng bạc.
-. một túi gạo.
-. giấy vàng bạc: thọ kim để cúng Thổ Địa, tiểu ngân để cúng vong
Tất cả do con cái quì ngoài cổng đốt cúng đón quan tài.
Cơm chong đầu
Đồ cúng
5.  Tẩn Liệm
Liệm tức là đưa thi thể người chết vào trong quan tài. Thông thường thì người ta chọn giờ tốt trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ sau khi chết, để tẩn liệm.
Khi liệm, con cháu phải có mặt đầy đủ, con hay cháu đích tôn trực tiếp theo dõi có người hiểu biết giám sát. Thi thể đặt trên nệm, đắp mền. Đầu kê gối trong gối độn giấy bạc hay lông gà, lông chó tạo thành bốn cạnh, góc, kèm theo “khố tiền” giấy tiền vàng bạc, những vật dụng thiết thân lúc còn sống mắt kính, sách, bầu rượu, đồ cổ ưa thích…
Thủ vĩ tiền
Đáy quan tài tốt nhất nên lót cỏ khô hoặc trà lá, có nơi lót thêm tờ giấy vẽ bảy sao Thất Tinh. Chân trái đạp giấy bạc, chân phải đạp giấy vàng. Tay trái cầm quạt, khăn tay hay bát bản, tay phải cầm cành đào. Tục xưa, dưới lưng có để “bối cân tuyến” và “quán ngân chỉ”, đạo sĩ còn làm phép “thế thân”. Trên mặt phủ tấm đệm che mặt người Mân Nam không có tục này. Bên trên mền đắp thi thể, chỗ ngực có đặt gương soi mặt. Kèm thêm số quần áo của người chết, theo tục ngữ nói “Vong giả đắc y, tử tôn đắc khố” người chết được y phục, con cháu được kho tiền, chữ KHỒ = kho, hài âm của chữ Phú. Trên hết là tấm “già thân phan” khổ vải trắng che thân. Tập tục còn đặt thêm số tiền xu cổ gọi là “thủ vĩ tiền”, phía đầu do nàng dâu đặt, phía chân do con gái đặt. Tục này nay đã bỏ.
6.  Đậy Nắp Quan Tài :-.

Làm xong những phần trên, tiếp đến đậy nắp quan tài lại. Ngày xưa do người tẩn liệm dùng dây có đòn bẫy để ép sát nắp hòm với quan tài, rồi dùng đinh đóng khóa chặt lại. Nay mọi việc đã có trại hòm lo liệu, dùng máy nén khí để ép chặt, trong có keo dán sắt dán kín lại. Có loại hòm hai nắp, nắp trong có phần kính ở phần mặt để thân nhân nhìn mặt trễ, nắp ngoài bằng gỗ đậy kín.
Theo tập tục truyền thống thì: “Người đàn ông chết, thì trưởng tộc bên nội đóng nắp quan tài, người đàn bà chết thì trưởng tộc bên ngoại đóng nắp quan tài”.
7.  NGHI THỨC TÔN GIÁO  -.
Trong khi làm động tác tẩn liệm, thường theo nghi thức của tôn giáo.

Đạo giáo thì tụng “Độ nhân kinh” v.v…
Phải có ban nhạc kèn trống … hòa tấu trong lúc tán tụng. Sau khi tẩn liệm xong, người thân chỉ còn thấy di ảnh mà thôi.
8.  Hồn Bạch:
Ngày xưa dùng lụa và tơ thêu làm linh vị bài vị người chết, ngày nay cải đổi lại làm bằng giấy do Hòa Thượng hay Đạo Sĩ làm sẵn mẫu, chỉ điền chi tiết tên tuổi vào thôi.
Hồn bạch linh vị tượng trưng cho người chết, nên không thể xem thường, phải điền tuổi tính theo âm lịch mới phù hợp.
Phần giữa ghi họ tên, tổng số chữ là bảy hoặc mười hai, án theo “sinh, lão, bệnh, tử, khổ” mà viết. Bảy và mười hai chữ thuộc về “lão” .
Khi di quan phải mang hồn bạch theo, hạ huyệt xong thì mang trở về nhà để lập bàn thờ mà cúng tế. Có nơi thì chôn xong là đốt, nơi thì để một trăm ngày, nơi thì giáp năm mới đốt. Phong tục của người Tuyền Châu thì khi mãn thất 49 ngày thì dẹp bàn thờ, đưa linh vị và di ảnh đặt bên trái của bài vị Thần Chủ mà thờ. Đủ ba năm nói theo năm, thực tế thì chỉ có 24 tháng làm lễ “hợp lô”, ghi tên tuổi vào nhà thờ, mới đốt bỏ linh vị.

9.  Hiếu Đường Bàn thờ
Dùng vải trắng phủ lên bàn, phía trước bên dưới có tấm “quần bàn”, hai bên có liễn tang. Quần áo giày dép …di vật của người chết đặt trên ghế bên cạnh.Trên bàn đặt linh vị, di ảnh, lư hương, đôi đèn, bên phải ngoài nhìn vào có bình bông, bên trái là dĩa trái cây. Phải đốt nhang đèn liên tục ngày đêm, không để bị tắt, vì thường xuyên có thân hữu đến viếng thăm.
Di ảnh nhớ làm thành nhiều tấm theo số con trai, sau khi mãn tang chia cho mỗi người một tấm mà thờ.
II. – THỜI GIAN CỬ HÀNH TANG LỄ
Dấu hiệu nhà có tang
Đèn báo tang
1-. Treo Đèn Báo Có Tang:
-. Bình thường, trước nhà mọi người thường treo cặp đèn gọi là “Hỉ đăng” đèn vui, trên có ghi hiệu của nhà, thí dụ: Họ Lý -. Lũng Tây, Họ Trần -. Dĩnh Xuyên,Họ Kỷ -. Cao Dương v.v… Khi gia đình có tang thì treo thêm cặp đèn “Tang đăng” báo có tang để người khác biết.
-. Tang đăng còn gọi là “Đại đăng” được treo để nói hai ý:

*.  đã tẩn liệm rồi
*.  đang còn quàn linh cữu tại nhà.
*.  Cách chế tác tang đăng:
-. hai lồng đèn trên có ghi họ: Lý, Trần …
Áo cho người chết mặc = Thọ y
viết liễn tang 1
2-. Chuẩn Bị Cây Gậy Tang:
“Gậy tang” hiếu trượng còn gọi là “Khốc tang bổng” gậy khóc tang dùng để trợ giúp cho người con trai lúc quì trước quan tài hay phần mộ, linh sàng …trong thời gian tang lễ, tinh thần bi thương, ăn ngủ thất thường sức khỏe kém …nhờ cây gậy mà tựa nương cho đở bị gục té.
Phát tang
Cách làm gậy cho tang cha và tang mẹ khác nhau. Sách Lễ Ký có nói: “Tang cha thì dùng trực trượng gậy thẳng làm bằng cây trúc, nói lên khí tiết bất biến của người đàn ông; tang mẹ thì dùng tước trượng gậy vót được vót đẽo bằng cây ngô đồng, nói lên sự vất vả khốn khó của người mẹ, đã trải qua chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, ân tình nặng như non.”
Cúng cơm 1
*.  Gậy tang của con trai thì quấn vải đỏ, phần đầu gậy bịt vải đen, còn nếu là cháu nội trai thì quấn vải đỏ nhưng đầu gậy bịt vải trắng. Ngày xưa, gậy tang dài bốn thước 1,6 m đường kính một tấc 4cm. Ngày nay làm gậy tang chỉ khoảng 1 đến 2 thước 0,4—0,8 m. Khi đưa đến phần mộ, có thể đốt gậy này, hoặc đem về nhà đợi khi làm chung thất 49 ngày thì đốt cũng được.
3-. Chiêu Hồn Phan: phướng gọi hồn
Tục gọi là “cây phan” hay “tràng phan” được làm bằng một cây trúc, phần đầu còn một số lá tươi tượng trưng cho ý nói con cháu đông. Trên đầu cột tấm vải trắng hẹp dài, ghi tên tuổi, năm sinh, năm mất của người chết. Phan này là do phái Đạo gia chế ra, dùng để làm pháp “chiêu hồn” người chết.
Gọi hồn người chết

5-. Đả Đồng trét kín quan tài
Ngày xưa, khi liệm xong, người ta dùng vải tẩm với nhựa cây ngô đồng mà trét kín xung quanh quan tài, đồng thời dùng vải trắng che đậy các nơi thờ phụng trong nhà lại, động tác ấy gọi là “đả đồng”.

Thời gian tùy theo việc quàn linh cữu tại nhà lâu hay mau ba, năm ngày … vài tháng v.v…. Đứng về quan điểm vệ sinh thì việc quàn linh cữu tại nhà không nên để lâu.
6-. Thủ Linh Canh giữ quan tài
Trong lúc còn quàn linh cữu tại nhà, thì con cháu phải thay phiên nhau túc trực bên cạnh quan tài cả ngày lẫn đêm, gọi là “thủ linh”, tục gọi là “khốn quan cước” bó chân vô quan tài .Việc này ý nói, khi còn sống thì sáng chiều gần gũi, nay người vừa mất thì cũng phải có thân nhân kề bên để an ủi. Dân gian tin rằng, người chết đến ngày thứ bảy thì quay trở về nhà để quan sát tình hình nhà cửa, xem sinh hoạt của con cháu ra sao, có thể hiện được sự nhớ ơn sinh thành dưỡng dục… hay không.
Ý nghĩa chính của việc con cháu “thủ linh” là để, vạn nhất có trường hợp ngộ nhận về cái chết của người thân thực sự chưa chết, con cháu sẽ nghe được tiếng động đậy cựa quậy trong quan tài mà tri hô lên cho mọi người biết xưa từng có xãy ra trường hợp này. Ý thứ hai là, có con cháu đáp tạ khi quan khách đến phúng viếng, lễ bái vong linh, con cháu lạy đáp trả lại.
7-. Tang Phục
Y phục cho việc để tang chủ yếu là dùng loại vải trắng, nhưng có phân biệt thành năm thứ màu là: trắng xám ma bố = vải sô gai, trắng ngà trữ bố = cây bạch trữ, trắng thường bạch bố, xanh lam thanh bố, đỏ hồng bố, vàng hoàng bố tùy theo người thọ tang.
Tang phục thì theo tập tục, nhờ hàng xóm láng giềng người ngoài may bằng tay giùm tránh người trong nhà và không may bằng máy may. Cũng làm thêm khăn tang phù hợp với tang phục. Khi tẩn liệm xong, làm lễ “phát tang” thì mới mặc đồ và đội tang vào. Con trai, con gái chưa lấy chồng và cháu nội trai phải đội “dây rơm mũ bạc” và chống gậy tang. Dâu và con gái, cháu gái thì đội mũ tang “thảo cô”, dâu có dây đuôi, con gái thì không có. Việt Nam thì con dâu quấn khăn lên đầu, con gái trùm khăn che mặt-. NT
Gậy tang hiện nay dài một thước hai 0, 48 m, nếu năm nhuần thì thêm 4 cm 1 tấc ta nữa. Gậy tang cha bằng trúc, gậy tang mẹ bằng cây ngô đồng hay cây thích xương Vùng Nghi Lan thì dùng cây thích xương. Bên ngoài gậy tang cũng bọc bằng vải tang theo tang phục.
Màu sắc vải tang được phân biệt như sau:
Ma bố
1/-. Vải sô gai màu trắng xám ma bố: dùng cho con trai, con gái chưa lấy chồng, cháu nội trai. Đây là tang phục quan trọng nhất.
Trữ bố
2/-. Vải trắng ngà trữ bố: dùng cho cháu, chắt nội trai; con gái đã lấy chồng. Đây là loại tang phục quan trọng thứ nhì.
Thanh bố
3/-. Vải xanh lam thanh bố: dùng cho cháu cố các loại cháu bốn đời: trai, gái, dâu, rễ …
4/-. Vải đỏ hồng bố: dùng cho các loại cháu sơ cháu năm đời, gọi người chết bằng ông, bà sơ
5/-. Vải vàng huỳnh bố:dùng cho cháu sáu đời hiếm có, lục đại đồng đường.
Bạch bố
6/-. Vải trắng thường bạch bố : dành cho thân tộc hoặc cháu ngoại, hay người ngoài họ mà vì mang ơn nghĩa muốn để tang người chết.
Ngoài vấn đề màu sắc như trên, còn một số hình thức khác để phân biệt tính cách, quan hệ …với người chết. Như là: đã có gia đình thì mặc áo có tay, chưa có gia đình thì không tay; cháu nội trai trưởng và cháu nội dâu trưởng thì mặc tang phục loại ma bố, mũ rơm; con gái có chồng mặc tang phục giảm bớt như khăn tang dùng ma bố, quần áo dùng trữ bố v.v…. Rất nhiều chi tiết, phải tham khảo sách chuyên đề mới biết rõ được.
8-. Cúng Hậu Thổ, Điểm Chủ :
a/-. Cúng Hậu Thổ:
Sau khi an táng xong, phải lập một tấm bia kế bên ngôi mộ, trên có ghi hai chữ “Hậu Thổ”, bày phẩm vật ra để cúng tế Thần Đất cai quản nơi này, xin thần hỗ trợ giúp đỡ cho vong linh đồng thời cũng bảo quản, gìn giữ phần mộ từ đây về sau. Động tác này gọi là “Cúng Hậu Thổ”.
Tục ngày xưa, phải mời thỉnh những người có học, đỗ đạt bằng cấp từ Tú Tài, Cử Nhân … trở lên, hoặc người có chức vị lớn trong xã hội, đến tận nơi phần mộ cử hành nghi thức Cúng Hậu Thổ này. Ngày nay thì đa số đều thỉnh đạo sĩ hoặc thầy địa lý đến làm việc này. Khi vị ấy viết xong hai chữ Hậu Thổ bằng châu sa đỏ, quay mặt về hướng Đông ném cây bút, vừa ném vừa niệm những câu thần chú cầu cát tường, cuối cùng gom bút mực lại, chôn gần với bia Hậu Thổ.
b/-. Nghi thức Điểm Chủ: Có thể kết hợp với lễ cúng Hậu Thổ để làm luôn nghi điểm chủ, hoặc tổ chức vào dịp khác cũng được.
Ý nghĩa của nghi thức điểm chủ là, khi con cháu không phát triển được công danh sự nghiệp, trước đây phải mời một vị nào đó, hiển đạt về công danh, làm “Điểm Chủ Quan” ông quan điểm chủ để chủ trì công việc này. Nay thì thường là mời quí vị đạo sĩ hay thầy địa lý đến làm.
*.  Cách làm:Người ta viết sẵn chữ “CHỦ” 主 nhưng để thiếu một chấm trên đầu đang là chữ VƯƠNG王 .Sau khi tiến hành việc cúng tế, vị quan điểm chủ sẽ dùng châu sa chấm thêm trên đầu chữ Vương王 một chấm 丶, tức thành chữ Chủ 主, vì thế nên gọi là “điểm chủ”.
Sau khi chấm xong, quan điểm chủ cũng ném bút về hướng Đông và đọc những câu chú cát tường.
*.  Khi hoàn thành việc Cúng Hậu Thổ và Điểm Chủ, nếu có, đạo sĩ hoặc thầy địa lý sẽ làm phép rải một số ngũ cốc ngũ chủng cốc tử lên phần mộ, số còn lại thì giao cho gia đình con cháu giữ. Con cháu lại lấy thêm một cục đất ở phần mộ, đem về nhà thờ chung với số ngũ cốc trên. Động tác này biểu đạt ý nghĩa:“Tử tôn phồn diễn, Ngũ cốc phong đăng” 子孫繁衍, 五穀豐登 [con cháu đông đúc, ngũ cốc dồi dào ] *.  Ghi chú:”Ngũ cốc” 五穀 năm thứ cốc, là “đạo, thử, tắc, mạch, thục” 稻, 黍, 稷, 麥, 菽 lúa gié, lúa nếp, lúa tắc, lúa tẻ, đậu.
*.  Phẩm vật cúng Hậu Thổ:
-. Bông, trái cây, đèn cầy, rượu, bộ tam sinh.
-. Giấy tiền vàng bạc:dùng ba loại : thọ kim, ngãi kim và phúc kim.
9-. LỄ AN SÀNG 
Sau khi hạ huyệt xong, tang chủ mang bài vị thần chủ, lư hương…kèm theo một cục đất ở phần mộ và số ngũ cốc của Thầy đưa cho khi làm phép “điểm chủ” … đem về nhà làm lễ “An Sàng” lập bàn thờ vong linh. Động tác này gọi là “Phản Chủ” mang chủ trở lại .
Người ta thiết một “bàn thờ vong” linh trác, đặt những phẩm vật cúng kiến lên đó với bài vị, di ảnh, lư hương …Thầy hoặc đạo sĩ tụng kinh làm phép “An Linh” còn gọi “Thụ Linh” trong lúc đó thì con cháu quì bái cúng tế và than khóc để tỏ lòng hiếu thảo.
*.  Phẩm Vật Cúng :
-. đèn cầy, hoa tươi, rượu, năm món ăn ngũ vị uyển, trái cây.
-. loại giấy tiền vàng bạc: dùng giấy tiền
*.  Điều cấm kỵ:Đa số người ta hay dùng đèn dầu để thắp trên bàn vong, nhưng “Du 油= dầu” đồng âm với “Du 莿= cây gai nhọn nên dân gian kỵ thắp đèn dầu, sợ bị chứng đau nhức gân xương.

10-. NHỮNG ĐIỀU CẦN CHÚ Ý TRONG TANG LỄ
Phong tục tang lễ của Thương Gia buôn bán khá phức tạp, mỗi nơi một kiểu theo tập quán cổ của địa phương gốc, nên có điểm không thể khảo cứu tường tận được. Trong số những tập quán ấy, có cái không còn phù hợp với xã hội hiện nay.
Tổng quát mà nói, xin nêu lên những điểm chung như sau:
1-. Giờ cúng vong hàng ngày, sáng là khoảng bảy giờ, chiều khoảng bốn giờ.
2-. Trước khi cúng, phải thay nước cúng. Cúng Thổ công táo vương ba chén ly, cúng vong một chén ly.
3-. Trái cây cúng vong khoảng chừng hai ngày thay một lần. Nên chọn loại quả có hình tròn tượng trưng cho sự viên mãn = tròn đầy như: bom, nho, đào, …
4-. Lư hương phải đốt nhang liên tục, đừng để gián đoạn, cả bàn Thổ công táo vương lẫn bàn vong.
5-. Trước ngày động quan, người thọ tang không nên đi đến các đền, miếu. Không tham dự những tiệc vui mừng cưới hỏi, mừng thọ …. Trong cùng năm đó, nếu trong thân tộc có tang, thì không để tang mặc áo tang, đội tang và đi đưa tang, chỉ đến thắp hương cúng viếng ở nhà người đó thôi. nếu tập quán cũ cho phép thì cứ theo.
6-. Con trai trong nhà đang thọ tang thì không được hớt tóc, không cạo râu. Con gái thì không đi uốn tóc. Con cái không nên mặc những y phục sặc sỡ, lòe loẹt mà chỉ mặc những loại màu tối, thắt cà-. vạt đen, mang giày vải hoặc dép trắng.
7-. Người thọ tang như nếu đang có thai, phải báo cho người phụ trách tang lễ biết, để làm thêm một băng vải đỏ mà quấn ngang bụng.
8-. Nếu lở có làm dư khăn tang, cố gắng tìm người trong thân tộc mà chuyển giao cho họ đội. Trường hợp không có ai, thì đích thân tang chủ phải mang theo lúc di quan và đốt tại phần mộ, chứ không đưa cho người bên ngoài thân tộc.
Nếu phong tục gốc có khác, thì tùy phong tục ấy.

14-. Tác  Tuần -.
Một “Tuần” là mười ngày. Có số địa phương sau khi làm xong bảy thất 49 ngày thì làm tiếp theo “Bốn tuần” để cúng bái “bốn vị Phán quan”. Bốn tuần thì hết bốn mươi ngày, cộng bốn mươi chín ngày làm thất thành ra chín mươi chín ngày. Kế ngày hôm sau ngày thứ 100 đó thì làm lễ “Cúng trăm ngày” cho vong linh.
Đa số ít người phân biệt như trên, làm thất và làm tuần dùng lẫn lộn. Có nơi thì chỉ làm thất chứ không làm tuần. Phẩm vật cúng làm tuần cũng tương tự như khi làm thất.
Trong thời gian chưa di quan đi an táng, nếu đến ngày giỗ tổ tiên trong khoảng ấy thì miễn cúng giỗ. Chỉ cúng giỗ khi đã an táng xong. Nhưng nếu là vào những dịp phải tế tổ như các tiết: Thanh Minh, Đoan Ngọ, Trung Nguyên, Đông Chí, Giao thừa trừ tịch … thì ngày hôm trước khi đổi tiết, phải cúng vong linh rồi hôm sau mới cúng tế Tổ Tiên.
*.  Cúng bái bốn vị Phán Quan:
-. tuần thứ nhất Sinh Tử Phán bái Phán Quan họ Thôi
-. tuần thứ hai Tra Sát Phán bái Phán Quan họ Lý
-. tuần thứ ba Trừng Ác Phán bái Phán Quan họ Hàn
-. tuần thứ tư Thưởng Thiện Phán bái Phán Quan họ Dương.

15-. CÚNG TRĂM NGÀY
*.  Lý do:Tính ngày chết của người đó là ngày thứ nhất, đếm đến ngày thứ một trăm thì tổ chức lễ cúng vong linh, gọi là “Cúng trăm ngày” Tác bách nhật.
Ngày này, nên thỉnh quí vị Đạo sĩ hay Hòa Thượng đến làm lễ cầu siêu, tụng kinh siêu độ cho người chết mau siêu thăng hoặc tái sinh vào chỗ tốt. Ít nhất thì gia đình cũng phải cúng tế, tự cầu nguyện cho thân nhân mình chư không nên bỏ qua.
*.  Phẩm vật cúng: bộ tam sinh, năm món ăn, trái cây, rượu.
*.  Giấy vàng bạc:đốt giấy tiền.
*.  Cúng trăm ngày còn gọi là “Tốt khốc” Hết khóc, hết tang. Ngày này là cúng bái Bình Chính Minh Vương để xin tội cho vong linh.
16-. CÚNG TIỂU TƯỜNGCúng giáp năm
*.  Lý do:Khi người mất tròn đủ một năm, con cháu phải tập họp lại để “Cúng Giáp Năm” cho vong linh.
Lễ này phải thỉnh Đạo sĩ hay Hòa Thượng đến tụng kinh, làm pháp sự trọng thể. Xong lễ này, con cháu có thể cởi tang phục .
*.  Phẩm vật cúng: bộ tam sinh, năm món ăn, trái cây, rượu.
*.  Giấy vàng bạc:đốt giấy tiền.
*.  Lễ cúng giáp năm còn gọi là “Tiểu Tường” cúng bái Đô Thị Minh Vương để xin tội cho vong linh.
17-. CÚNG ĐẠI TƯỜNG Cúng ba năm
Khi người chết đủ ba năm nói theo năm, thực chất là hai mươi bốn tháng thì tiến hành “Cúng ba năm” còn gọi Đại Tường với phẩm vật cúng trọng thể hơn các lần trước.
Lễ này cũng mời Đạo sĩ hay Hòa Thượng đến làm đầy đủ nghi thức pháp sự. Dân gian thường gọi lễ này là “Thoát hiếu” hết thời gian cư tang báo hiếu và không còn kiêng kỵ những việc như: đi đền miếu, quần áo đẹp, tiệc tùng …
Nếu chưa xả tang vào dịp giáp năm, thì đến ngày này mới xả được.
*.  Lễ cúng Đại Tường tế bái Chuyển Luân Minh Vương xá tội vong linh.
18-. XẢ TANG
Tang gia đã thực hiện đầy đủ các lễ cầu siêu cho người chết như: làm thất, làm tuần, cúng trăm ngày, cúng giáp năm rồi, thì có thể dọn dẹp “Bài vị người chết” và Lư hương đốt nhang cho vong linh thiết đặt trong lễ an sàng trước đây.
Chọn phương hướng tốt để chôn hoặc đốt bỏ hai thứ này.
Lễ xả tang cũng phải mời Đạo sĩ hay Hòa Thượng đến làm pháp sự theo nghi thức tôn giáo, đầy đủ phẩm vật cúng tế, đốt giấy tiền vàng bạc cho vong linh, rồi mới cởi bỏ tang phục, tập trung lại đốt bỏ.
*.  Có nơi, phải đợi đến “Cúng ba năm” thực chất là hai mươi bốn tháng mới làm lễ xả tang.
Ngày hôm sau, đến cúng bái ở các đền, miếu để giải trừ hết những “điều bất tường” trong thời gian thọ tang. Trở về nhà hớt tóc, cạo râu, tắm gội sạch sẽ tỉnh thân. Động tác này gọi là “Hành Viên” làm tròn.
*.  Phẩm vật cúng: bộ tam sinh, năm món ăn, trái cây, rượu.
*.  Giấy vàng bạc:đốt giấy tiền.
19-. Hợp  Lô Chung lư hương
Sau khi làm lễ xả tang, tiến hành nghi thức “Hợp Lô” chung lư hương, tức là đốt bỏ bài vị người chết, lấy một ít tro nhang trong lư hương cúng vong, đem bỏ vào trong lư hương của tổ tiên, ghi tên người chết vào bài vị tổ tiên.
Lễ này có thể tổ chức sau khi xả tang giáp năm hoặc ba năm. Theo phong tục của người Tuyền Châu thì tổ chức hợp lô vào tháng sáu hoặc tháng mười, ngoại trừ ngày xả tang rơi vào tháng mười hay mười một, mới làm lễ hợp lô vào tháng chạp.
Còn phong tục của Chương Châu thì phải đợi đến cúng ba năm, xả tang rồi thì làm nghi thức hợp lô luôn.
Sau khi làm lễ hợp lô, những người trong gia đình có người chết mới trở lại sinh hoạt bình thường hết kiêng cử.
Nếu gặp năm chính xung, tuy đã xong ba năm, nhưng cũng không nên hợp lô, mà đem bài vị người chết đặt bên cạnh bài vị tổ tiên, chờ năm sau mợi hợp. Động tác này gọi là “Ký Lô” gởi lư hương.
*.  Lễ hợp lô tổ chức như sau:
˙thời gian: trước giờ Ngọ
˙ địa điểm: trước bàn thờ có bài vị Tổ Tiên .
*.  Phẩm vật cúng: bộ tam sinh, năm món ăn, trái cây, rượu.
*.  Giấy vàng bạc:đốt ngãi kim và giấy tiền.

NỘI DUNG NHỮNG VĂN THƯ DÙNG TRONG ĐÁM TANG

Trong thời gian cử hành tang lễ, tang gia nhất định phải sử dụng một số văn kiện, hoặc là những câu trong trướng, đối phúng viếng của thân hữu … đều thuộc về loại văn thư dùng trong đám tang, có nhiều chủng loại khá phức tạp.
Ở Thương Gia buôn bán, trước khi có các dịch vụ mai táng xuất hiện, tang lễ là do bà con hàng xóm láng giềng và thân hữu, thân nhân …hợp lại cùng nhau giải quyết. Những văn thư được dùng trong tang lễ, hầu hết là do sự truyền miệng từ đời này sang đời khác, hoặc do các nhân sĩ tôn giáo dạy bảo. Nhưng nghi thức tang lễ ngày càng phát triển thêm lên, khiến cho mọi người cảm thấy rắc rối, hỗn tạp đủ thứ.
Ngày nay, việc tang lễ đa số đều nhờ vào các dịch vụ mai táng đảm trách, họ có những vị chuyên phụ trách đứng ra làm theo điều kiện kinh tế gia đình và tôn giáo của mỗi nhà.

Theo tập quán Thương Gia buôn bán, xin nêu một số văn thư thường dùng khi có tang lễ :
1-. Báo Tang:
Khi hữu sự có tang, nhà đó dán một tờ giấy trắng hoặc tấm vải màu đen trắng, trên có ghi thân phận người chết, để báo cho mọi người biết.
Thuật ngữ dùng như sau:
a/-. “Nghiêm Chế” : dùng khi có cha, hoặc người con trai trưởng trong nhà chết.
b/-. “Từ Chế”: dùng khi có mẹ, hoặc người con gái trưởng trong nhà chết.
c/-. “Tang Trung”: dùng khi cha mẹ còn sống mà người con thứ chết.
d/-. “Phụng Tổ Phụ Mẫu dụ xưng Nghiêm Từ Chế”: dùng khi Ông hay Bà còn sống mà Cha hay Mẹ chết.
2-. Hồn Bạch: còn gọi là Thần Chủ hay Mộc Bài, tức bài vị thờ người chết
-. Hồn Bạch được sử dụng tượng trưng cho người mới vừa chết, thay thế cho bài vị Thần Chủ Mộc Bài sau này.
Ngày xưa, người ta dùng lụa tơ để làm hồn bạch, nay thì thông dụng làm bằng giấy dày. Trên đó có ghi họ tên, năm sinh, ngày tháng năm mất của người chết, đặt trang trọng trước quan tài ở giữa nhà để mọi người lễ bái, gọi là “Thụ hồn bạch”.
Một số nơi là do Đạo sĩ hay Pháp sư làm ra. Hồn bạch đại diện cho người chết, nên không thể xem thường, ghi chép tùy tiện được. Những chi tiết về tên họ, tuổi, ngày giờ mất… được ghi sao cho đủ “Bảy” hoặc “Mười Hai” chữ, tính theo “Sinh, Lão, Bệnh, Tử, Khổ”. Như vậy, bảy chữ hoặc mười hai chữ thuộc về “Lão” là tốt.
Hồn bạch được mang theo quan tài khi đi an táng, xong, lại mang về làm lễ an sàng tại nhà để thờ cúng mỗi ngày. Tùy theo tập quán của từng nơi, hồn bạch có thể đốt sau khi hạ quan, sau cúng trăm ngày hoặc chờ đến lúc “Hợp lô” xong .
3-. Minh Tinh Tấm Triệu
Cũng là một vật biểu trưng cho người chết, ghi quê quán, trú quán … của người chết trên một tấm vải dài hẹp, gắn ở đầu cây trúc, dựng đứng bên cạnh quan tài .
a/-. Theo truyền thống:
chỉ là tấm vải đỏ dài hẹp, viết chữ bằng bột keo vàng. Trên ghi: “Hiển khảo tiền ….hương, trường … công, …  … phủ quân chi linh cữu”
Linh cữu của Cha trước ở …, chức vụ …. tại ……
b/-. Tập quán khác:
Phong tục của miền Bắc, trong nhà có con gái cháu gái đã lấy chồng, người rễ phải tặng tấm Minh tinh cho Cha Ông của vợ. Tấm này bằng vải đỏ, trên có dán ba đoạn giấy ghi chữ cha giấy xanh, mẹ giấy vàng. Minh tinh treo lên đầu cây trúc, đặt ở cạnh quan tài, khi di quan thì mang đi theo. Đến phần mộ, chôn xong thì bóc bỏ đoạn giấy đem đốt, mang tấm vải về nhà thờ.
4-. Mộ Bia hay Hủ đựng tro cốt
a-. Mộ bia: Nội dung có ba phần chủ yếu:
-. Phần ở giữa ghi tính danh người chết quan trọng
-. Phần ngày tháng sinh, tử chú ý số chữ phải rơi vào “lão” mới tốt
-. Con cháu hợp lập mộ chú ý số chữ phải rơi vào: sinh” mới tốt
Dân gian gọi đó là “lưỡng sinh’ hay “lưỡng lão” ý nói tốt
b-. Hủ cốt:Tùy theo kích cở ngôi tháp sắp đem nhập hủ cốt lớn nhỏ, hủ cốt cao thấp ra sao mà chọn phần ghi tên họ ngày tháng… hoặc gắn ảnh .
Thí dụ:“Dân quốc năm thứ bảy mươi ba”, “Tro cốt của …  … Lão Sư”.

Còn tiếp >>>>


Tin liên quan

Chia sẻ bài viết: 



Bình luận:

Hỗ trợ trực tuyến

Lê Công

0369.168.366

Nhà đất bán theo tỉnh thành
Nhà đất cho thuê theo tỉnh thành
Kinh Dịch
Tử vi
Huyền không Phi Tinh
Văn Hóa_Tín Ngưỡng
Thước lỗ Ban
Xen ngày tốt
Văn Hóa_Tín Ngưỡng
TIN NỔI BẬT

LÊ LƯƠNG CÔNG

Trụ sở: Số 31 - Mương An Kim Hải - Kenh Dương, Le Chan, Hai Phong

Tel: 0369168366 - Hotline: 0919.168.366 - Email: nhadatcongminh@gmail.com

Copyright © 2019 https://leluongcong.com/