(Phẩm thứ Hai mươi năm)
Bấy giờ Bồ – tát Vô – Tận – Ý liền từ tòa ngồi đứng dậy, hở áo vai hữu,
chặp tay hướng về Đức Phật bạch rằng:
“Bạch Đức Thế – Tôn!
Bồ – tát Quán – Thế – Âm vì nhân duyên gì gọi tên là Quán – Thế -Âm ? “
Đức Phật bảo Bồ – Tát Vô – Tận – Ý rằng:
Này thiện nam tử! nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sinh phải chịu mọi sự khổ não, được nghe Bồ – tát Quán – Thế – Âm đây, mà dốc lòng xưng tên Bồ – tát Quán – Thế – Âm, tức thì Bồ – tát quán xét giọng tiếng của người ấy, khiến được giải thoát.
Nếu có người chuyên trì tên hiệu Bồ – tát Quán – Thế – Âm, dù vào lửa lớn, lửa không thể cháy được, là do nhờ sức oai thần của Bồ – Tát.
Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng tên hiệu Ngài, liền được chỗ cạn.
Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sinh vì sự tìm cầu vàng, bạc, lưu -ly, xà – cừ, mã não, san – hô, hổ – phách, trân – châu, các thứ ngọc báu…, phải vào trong bể lớn; giả sử bị mây mù, gió dữ thổi thuyền bè trôi dạt vào nước quỷ La – Sát; trong đó dù chỉ có đến một người xưng tên Bồ – tát Quán – Thế – Âm, thì những người trong thuyền ấy, đều được thoát khỏi tai nạn quỷ La – Sát.
Vì nhân duyên ấy lên gọi là Bồ – tát Quán – Thế – Âm.
Nếu lại có người sắp phải bị hại, xưng tên Bồ – tát Quán – Thế – Âm, thì dao gậy của kẻ cầm kia, liền bị gẫy nát ra từng đoạn một mà được giải thoát.
Nếu trong ba nghìn Đại thiên Quốc độ, có đầy dẫy quỷ Dạ – Xoa, La – Sát, muốn đến làm não hại người, khi nghe người đó xưng tên Bồ – tát Quán – Thế – Âm, những quỷ ác La – Sát kia còn chẳng giám dùng mắt dữ nhìn người ấy, huống chi lại giám làm hại.
Nếu lại có người, dù có tôi hay vô tội, mà bị gông cùm xiềng xích, chằng trói nơi mình, xưng danh hiệu Bồ – tát Quán – Thế – Âm, thì xiềng xích kia thảy đều đứt nát, liền được giải thoát.
Nếu trong cõi Tam Thiên Đại – Thiên, đầy rẫy giặc oán, có một người chủ lái buôn cùng với những người buôn khác, đem theo của báu quý giá, đi qua đường hiểm, trong đó có một người đề xướng lên rằng: “Các thiện nam tử! Đừng nên sợ hãi, các ông phải nên hết lòng niệm danh hiệu Bồ – tát Quán – Thế – Âm , vì Bồ – Tát ấy hay dùng phép Vô – Úy ban cho chúng sinh. Nếu các ông niệm danh hiệu Ngài, sẽ được thoát khỏi nạn giặc oán này”. Các ngài lái buôn nghe nói thế rồi, đều cất tiếng niệm rằng: “Nam – mô Quán – Thế – Âm Bồ – tát”. Vì nhờ xưng tên Ngài, mà liền được giải thoát.
Ông Vô – Tận – ý! Bồ – tát Quán – Thế – Âm uy thần thế lực rộng lớn nhường ấy.
Nếu có chúng sinh nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Bồ – tát Quán – Thế – Âm, liền được lìa mọi lòng dục.
Nếu người nhiều lòng hờn giận, thường cung kính niệm Bồ – tát Quán – Thế – Âm, liền được lìa khỏi hờn giận.
Nếu nhiều ngu si, thường cung kính niệm Bồ – tát Quán – Thế – Âm, liền được lìa khỏi ngu si.
Ông Vô – Tận – Ý! Bồ – tát Quán – Thế – Âm có uy thần thế lực lớn như thế. Ngài hay làm những việc lợi ích cho chúng sinh, vì thế nên phải một lòng nhớ niệm.
Nếu có người đàn bào nào, ví dù muốn cầu con trai, lễ bái cúng dàng Bồ – tát Quán – Thế – Âm, thì liền sinh được con trai phúc đức trí tuệ, Ví dù muốn cầu con gái, thì liền sinh được con gái có tướng đoan trang; bởi vì trước kia đã trồng được cội phúc, cho nên đều được mọi người kính mến.
Ông Vô- Tận – Ý! Bồ – tát Quán – Thế – Âm có thần lực như thế. Nếu chúng sinh nào, cung kính lễ bái Bồ – tát Quán – Thế – Âm, thì phúc đức của người đó cũng không luống mất.
Vì thế chúng sinh đều nên thù trì danh hiệu Bồ – tát Quán – Thế – Âm.
Ông Vô- Tận – Ý! Nếu có người nào thụ trì danh tự của sáu mươi hai ức Hằng – hà sa Bồ Tát, lại trọn đời cúng dàng thức ăn uống, áo mặc, đồ nằm, thuốc thang, ý ông thế nào. Công đức của người thiện nam, thiện nữ ấy có nhiều chăng?
Bồ – tát Vô – Tận – Ý bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế – Tôn! Công đức của người đó rất nhiều”.
Đức Phật bảo: “Nếu lại có ngươi thụ trì danh hiệu Bồ – tát Quán – Thế – Âm, nhẫn đến một thời lễ bái cúng dàng; công đức của hai người ấy bằng nhau không khác, dù trăm nghìn muôn ức kiếp không thể cùng tận.
Ông Vô- Tận-Ý! Người thụ trì danh hiệu Bồ – tát Quán – Thế – Âm được lợi ích phúc đức, vô lượng vô biên như thế!”
Bồ – Tát Vô – Tận- Ý bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế – Tôn! Tại sao Bồ – tát Quán – Thế – Âm lại dạo chơi khắp cõi Sa – Bà này? Tại sao Ngài vì chúng sinh dùng sức phương tiện nói Pháp? Việc đó thế nào?”
Đức Phật bảo Bồ – tát Vô – Tận – Ý rằng: Này thiện nam tử! Nếu có chúng sinh ở cõi nước nào, phải dùng thân Phật mới độ được ấy, Bồ – tát Quán – Thế – Âm liền vì họ mà hiện ra thân Phật mà nói Pháp.
Nên dùng thân Bích – Chi Phật mới độ được, liền vì họ hiện ra thân Bích – Chi Phật mà nói Pháp.
Nên dùng thân Thanh – Văn mời độ được, liền vì họ hiện ra thân Thanh – Văn mà nói Pháp.
Nên dùng thân Phạm- Vương mới độ được, liền vì họ hiện ra thân Phạm- Vương mà nói Pháp.
Nên dùng thân Đế- Thích mới độ được, liền vì họ hiện ra thân Đế – Thích mà nói Pháp.
Nên dùng thân Trời Tự – Tại mới độ được, liền vì họ hiện ra thân Trời – Tự – Tại mà nói Pháp.
Nên dùng thân Trời Đại – Tự – Tại mới độ được, liền vì họ hiện ra thân Trời Đại – Tự – Tại mà nói Pháp.
Nên dùng thân Thiên – Đại – Tướng – Quân mới độ được, liền vì họ hiện ra thân Thiên – Đại – Tướng – Quân mà nói Pháp
Nên dùng thân Tỳ – Sa – Môn mới độ được, liền vì họ hiện ra thân Tỳ- Sa – Môn mà nói Pháp.
Nên dùng thân Cư – sĩ mới độ được, liền vì họ hiện ra thân Cư – sĩ mà nói Pháp.
Nân dùng thân Tể – Quan mới độ được, liền vì họ hiện ra thân Tể – Quan mà nói Pháp.
Nên dùng thân Bà – La – Môn mới độ được, liền vì họ hiện ra thân Bà- La – Môn mà nói Pháp.
Nên dùng thân Tỷ – khiêu, Tỷ – khiêu- ni, Ưu – bà- tắc, Ưu – bà -di mới độ được, liền vì họ mà hiện ra thân Tỷ – khiêu, Tỷ – khiêu- ni, Ưu – bà- tắc, Ưu – bà -di mà nói Pháp.
Nên dùng thân của phụ nữ của Trưởng – giả, Cư – sĩ, Tể – quan, Bà – la- môn mới độ được, liền vì họ hiện ra thân phụ nữ mà nói Pháp.
Nên dùng thân Đồng nam, Đồng nữ mới độ được, liền vì họ hiện ra thân Đồng nam, Đồng nữ mà nói Pháp.
Nêm dùng các thân Trời, Rồng, Dạ – xoa, Càn – thát- bà, A-tu-la, Ca – Lâu -la, Khẩn – na – la, Ma-hầu- la- già, Nhân và Phi Nhân mới độ được, đều vì họ hiện ra các thân kia mà nói Pháp.
Nên dùng thân Chấp – Kim – Cương – Thần mới độ được, liền vì họ hiện ra thân Chấp – Kim – Cương – Thần mà nói Pháp.
Ông Vô- Tận -Ý! Bồ – tát Quán – Thế – Âm thành tựu công đức như thế, Ngài dùng hết thảy thân hình dạo đi các nước để độ thoát cho chúng sinh.
Vì thế các ông phải nên một lòng cúng dàng Bồ – tát Quán – Thế – Âm . Vì Đại Bồ – tát Quán – Thế – Âm đối với chúng sinh ở trong tai nạn nguy cấp, sợ hãi, Ngài hay ban cho phép không lo sợ, cho nên ở cõi Sa – Bà này đều gọi Ngài là bậc ” Thí – Vô – ÚY”.
Bồ – tát Vô – Tận – Ý bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Con nay xin cúng dàng Bồ – tát Quán – Thế – Âm !”. Liền cởi chuỗi ngọc bằng các châu báu nơi cổ, giá trị trăm nghìn lượng vàng, trao cho Bồ – tát Quán – Thế – Âm mà nói rằng: ” Xin Ngài vui lòng nhận chuỗi ngọc chân bảo Pháp thí này!”. Khi ấy Bồ – tát Quán – Thế – Âm tạ từ không nhận.
Bồ – tát Vô- Tận – Ý lại bạch Bồ – tát Quán – Thế – Âm rằng: ” Xin ngài vì lòng thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này!”.
Bấy giờ Phật bảo Bồ – tát Quán – Thế – Âm rằng: ” Ông nên thương xót Bồ – tát Vô – Tận – Ý đây, và hàng tứ chúng, Trời, Rồng, Dạ – xoa, Càn – thát- bà, A-tu-la, Ca-Lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân và Phi Nhân…,mà nhận chuỗi ngọc.”
Tức thì Bồ – tát Quán – Thế – Âm vì lòng thương tứ chúng, Trời, Rồng, Nhân và Phi Nhân,… nhận lấy chuỗi ngọc, chia làm hai phần: Một phần dâng lên Đức Phật Thích – Ca Mẫu -Ni, một phần dâng Tháp Đức Phật Đa – Bảo.
“Ông Vô – Tận – Ý ! Bồ – tát Quán – Thế – Âm có sức thần tự tại, hay dạo chơi khắp cõi Sa – Bà như thế đấy!”
Khi ấy Bồ -tát Vô – Tận -Ý dùng kệ hỏi Đức Phật rằng:
Thế – Tôn đủ tướng đẹp
Con nay lại hỏi Ngài
Phật tử nhân duyên gì
Tên là Quán – Thế – Âm?
Đấng đầy đủ tướng đẹp
Kệ đáp : Vô – Tận – Ý !
Ông nghe hạnh Quán – Âm
Hay ứng khắp mọi nới
Nguyện rộng sâu như biển
Nhiều kiếp khó nghĩ bàn
Hầu nhiều ngàn ức Phật
Phát nguyện lớn thanh tịnh
Vì ông, Ta nói qua:
Nghe tên và thấy thân
Lòng nghĩ chẳng luống qua
Hay diệt mọi nỗi khổ
Dù ai khởi ý hại
Xô xuống hầm lửa lớn
Nhờ sức niệm Quán -Âm
Hố lửa biến thành ao
Hoặc trôi dạt bể lớn
Các nạn quỷ, cá, rồng
Nhờ sức niệm Quán – Âm
Sóng cồn không chìm được
Hoặc ở đỉnh Tu – Di
Bị người xô ngã xuống
Nhờ sức niệm Quán – Âm
Như mặt trời trên không
Hoặc bị người ác đuổi
Ngã xuống núi Kim – Cương
Nhờ sức niệm Quán – Âm
Không sây sát mảy may
Hoặc bị giặc oán vây
Dầu cầm dao toan hại
Nhờ sức niệm Quán – Âm
Đều khởi phát lòng lành
Hoặc bị nạn khổ: Vua
muốn hành hình, sắp chết
Nhờ sức niệm Quán – Âm
Dao liền gẫy từng đoạn
Hoặc cầm tù xiềng xích
Tay chân bị gông cùm
Nhờ sức niệm Quán – Âm
Bỗng nhiên được giải thoát
Nguyền rủa các thuốc độc
Muốn làm hại thân mình
Nhờ sức niệm Quán – Âm
Lại trở về người ấy.
Hoặc gặp La – sát – ác,
Rồng độc, các quỷ dữ
Nhờ sức niệm Quán – Âm
Thời đều không giám hại
Nếu thứ dữ vây quanh
Nanh vuốt nhọn đáng sợ
Nhờ sức niệm Quán – Âm
Chúng vội chạy nơi khác
Rắn độc và bọ cạp,
Nọc độc như khói lửa
Nhờ sức niệm Quán – Âm
Nghe tiếng, chúng lánh xa.
Mây sấm sét, chớp giật
Tuôn mưa đá, mưa rào
Nhờ sức niệm Quán – Âm
Liền được trời quang tạnh.
Chúng sinh bị khốn ách
Bao nỗi khổ bức thân
Sức diệu trí Quán – Âm
Hay cứu đời thoát khổ.
Đầy đủ sức thần thông
Rộng tu trí phương tiện
Các cõi nước mười phương
Đều hiện thân khắp cả
Hết thảy các thú dữ
Địa, Ngục, quỷ, súc sinh,
Khổ, sinh, già, bệnh, chết
Dần dần đều dứt hết.
Chân quán, thanh tịnh quán
Trí tuệ quán rộng lớn
Bi quán và từ quán
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Sáng thanh tịnh không nhơ
Tuệ nhật phá tối tăm
Hay dẹp tai gió, lửa
Soi sáng khắp thế gian
Thể bi ngăn sấm sét
Từ ý diệu như mây
Tuôn mưa Pháp Cam – Lộ
Dập tắt lửa phiền não.
Kiện tụng đến cửa quan
trong quân trận sợ hãi
Nhờ sức niệm Quán – Âm
Oán thù đều tan mất.
Diệu – Âm, Quán – Thế – Âm
Phạm – Âm, Hải – Chiều – Âm
Hơn tiếng thế gian kia
Vì thế nên thường niệm
Niệm niệm chớ sinh nghi
Quán – Âm bậc Tịnh – Thánh
Hay làm nơi nương tựa
Cho nạn chết, khổ não
Đủ hết thảy công đức
Mắt từ nhìn chúng sinh
Phúc tụ như biển lớn
Vì thế nên đỉnh lễ
Bấy giờ Bồ – tát Trì – Địa liền từ tòa ngồi đứng dậy, đi đến trước Phật bạch rằng: “Bạch đức Thế – Tôn! Nếu có chúng sinh nào nghe Phẩm Quán – Thế – Âm Bồ – Tát Đạo – Nghiệp – Tự – tại Phổ – Môn thị – hiện sức thần thông này, thì nên biết công đức của người ấy không phải là ít”.
Khi Phật nói xong Phẩm Phổ Môn này, trong chúng có tám vạn bốn nghìn chúng sinh đều phát tâm Vô – thượng Chính – đẳng Chính – giác.
TỤNG CHÚ RẰNG:
Án, đá lị, đá lị, đốt đá lị, đốt đốt đá lị, sa bà ha. (3 lượt)
LỤC TỰ ĐẠI MINH THẦN CHÚ
Úm, ma ni bát minh hồng. (7 lượt)
Chia sẻ bài viết:
LÊ CÔNG
0919.168.366
PHÚC THÀNH
0369.168.366
Một số cách an sao vòng Trường Sinh trong tử vi
TÍNH CÁCH, MẪU NGƯỜI, TRONG LÁ SỐ TỬ VI
7 nguyên tắc cơ bản sau cần phải xem kỹ trước khi bình giải một lá số Tử Vi
THẾ NÀO LÀ TUẾ PHÁ & NGŨ HOÀNG ĐẠI SÁT
BÍ QUYẾT SONG SƠN NGŨ HÀNH VÀ THẬP NHỊ THẦN ĐẠI PHÁP (TIÊU SA NẠP THỦY THEO THỦY PHÁP TRƯỜNG SINH)
Ý nghĩa của việc thờ bàn thờ Ông Địa
“BẢN GỐC” CỦA THƯỚC LỖ-BAN DÀNH CHO CÁC BẠN THẬT SỰ HAM MÊ PHONG THỦY !!!
Ngày Dương Công Kỵ Nhật - Chọn Ngày Giờ
Cách tính tháng đại lợi cưới hỏi cho từng tuổi
LÊ LƯƠNG CÔNG
Trụ sở: Số 12, Trực Cát , Vĩnh Niệm, Lê Chân, Hải Phòng
Tel: 0919.168.366 - Hotline: 0919.168.366 - Email: nhadatcongminh@gmail.com
Copyright © 2019 https://leluongcong.com/