KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 9
33.Xem mất vật.
Lấy cung Can ngày tới là Chủ mất. Can giờ tới là vật mất, đều lấy loài mà suy.
Thấy cung Can giờ được khí vượng tướng đến sinh Can ngày, lại được Phản ngâm thì được. Tới cung Không vong, Mộ, Tuyệt thì không được.
Kiền là khóa vàng, vật báu, khóa sắt, vật tròn, lại là mũ đội, là ngựa.
Khảm là thủy tinh trân châu, bút mực, lông tóc, vật nhỏ mềm, lại cũng là lợn.
Cấn là ngọc đá núi, đồ đá, vải che đèn, lại là trâu, chó, mèo.
Chấn là xe, thuyền, đồ mộc sắc biếc, vật may quần áo, lại là La, là Lừa.
Tốn là tơ lụa đoạn vải, vật mềm mại, lại là nhiều màu, vật nhỏ dài thành từng đôi.
Ly là văn minh, bản đồ, sách viết tay, ấn tín, quyển văn, chim nhiều màu, áo lông chim ấm. Lại là ngựa.
Khôn là đồng, sắt, khánh, trống, vật bằng kim khí rỗng lại có tiếng, ngà voi, là trâu dê.
Đoài là đồ trang sức bằng vàng bạc, có miệng lồng vào cổ tay. Lại là dê, gà, chim bay. Nếu thấy có khí là vật sống, không có khí là vật chết.
34.Xem người nào lấy cắp.
Lấy Bồng đầu là chủ trộm. Có khí vượng tướng, lại được Kỳ môn, cách cát, là người sang trọng lấy trộm. Không có khí vượng tướng, không được Kỳ môn, cách cát thì bọn tiểu nhân làm trộm.
Cũng phối quái mà quyết. Kiền là ông già. Chấn là trưởng xã. Khảm là trai thứ mới lớn khỏe. Cấn là trai nhỏ tuổi còn bé. Khôn là bà già. Tốn là gái trưởng. Ly là gái nhỡ. Đoài là gái nhỏ. Ở trong là thân cận. Ở ngoài là kẻ khác.
35.Xem bắt trộm cướp.
Đoạt người lấy của gọi là trộm đạo. Giết người cướp của gọi là tặc cướp.
Lấy Thiên bồng là đại tặc, Huyền vũ là tiểu tặc. Câu trận là người đi bắt trộm. Cửa Đỗ là phương bắt được. Đều lấy Thiên bàn làm chủ.
Cung Câu trận khắc cung Huyền vũ, Thiên bồng thì bắt được. Ví 2 cung Bồng, Huyền khắc cung Câu trận thì bọn trộm mạnh, người bắt không dám bắt. Cung Bồng Huyền và cung Câu trận tỷ hòa nhau thì người đi bắt trộm thông đồng với kẻ trộm. Cung Câu trận, Bồng Huyền cùng cung thì người đi bắt chính là trộm. Cung Bồng Huyền sinh cung Câu trận thì người đi bắt nhận hối lộ mà tha.
Đều lấy cách Canh lâm chủ. Gặp Niên cách thì trong năm bắt được. Gặp Nguyệt cách thì trong tháng bắt được. Nhật cách thì bắt được trong ngày. Thời cách thì trong giờ bắt được. Không cách thì không bắt được. Cửa Đỗ có cách cũng bắt được, không có cách thì không bắt được.
36.Khơi tìm dòng nước.
Lấy cửa Khai là chủ. Cửa Khai có khí Vượng tướng, lại được ba Kỳ thì khơi dòng có ích, thuận lợi, không có hại. Nếu cửa Khai gặp Phản ngâm, vào Mộ thì không nên khơi. Ví lại gặp Thái bạch cách hung và Giáp Thìn Nhâm thì sau có hại lớn.
37.Xem nước sông lên xuống.
Lấy Thiên Bồng, cửa Hưu mà quyết.
Cửa Hưu có khí Vượng Tướng mà được ba kỳ thì nước tuy dấy lên nhưng chưa đến nỗi tràn trề. Cửa Hưu có khí Vượng Tướng mà gặp cách Canh, chủ nước sông bị ủng tắc, dâng lên tràn trề. Lại có Giáp Thìn Nhâm, Đằng xà chủ nghiệt long vũ thủy (Rồng nghiệt đùa nước) làm hại.
Cửa Hưu rơi vào cung 2,5,8 Thủy bị Thổ khắc thì nước rút nhanh hoặc không có nước. Cửa Hưu không gặp cách Canh, với Giáp Thìn Nhâm thì nước tuy lên mạnh, nhưng không tràn bờ.
38.Xem gieo trồng mùa lúa.
Lấy 9 sao gặp cửa gì, lấy loại mà suy.
Gặp khí vượng tướng lại được ba Kỳ Cửa cát thì lấy: Cửa Khai Thiên tâm là lúa mỳ. Cửa Thương Thiên xung là lúa nếp hương. Cửa Đỗ Thiên Phụ là lúa nếp hạt to và tròn, lại là hoa bông vải. Cửa Cảnh Thiên ương là kê. Cửa Hưu Thiên bồng là đậu. Cửa Tử Thiên nhuế là lúa kiều mạch, lại cũng là tỏi.
Các cửa, các sao được khí vượng tướng, có ba Kỳ cách cát thì thu được to. Được khí vượng tướng, không được Ba kỳ cách cát thì thu kém. Trong 9 sao có bị khắc hoặc Không vong, vào Mộ mà được cách hung thì hỏng, không nên trồng nữa.
39.Xem mời khách.
Lấy Trực phù là khách, Thiên ất là chủ.
Cung có Thiên ất đến sinh cung có Trực phù thì tất là có đến. Can giờ sinh Can ngày cũng có đến. Sao Thiên bàn sinh sao Địa bàn cũng có đến. Trái thế thì không đến.
40.Xem tuyển phi.
Lấy Trực phù là quan được sai. Can năm là Thiên tử, Thiên trụ là gái trinh.
Can ngày Niên Mệnh của gái trinh được Trực phù sinh thì quan được sai xét trúng tất được tuyển. Thiên trụ được Trực phù sinh cũng được tuyển.
Nếu cung của Trực phù đến khắc cung Can Ngày Niên Mệnh của gái trinh hoặc cung mà Thiên trụ tới là thì không được tuyển.
41.Xem sau khi được tuyển thì ra sao.
Lấy cung có Can Năm và cung Can Ngày Niên Mệnh của gái trinh đến hợp với cung Thiên trụ mà xem.
Cung Can Năm đến sinh cung Can Ngày Niên Mệnh của gái trinh, và cung Thiên trụ thì được Thiên tử vui mừng yêu mến.
Nếu cung Giáp Tý Mậu đến sinh Can Ngày Niên Mệnh và cung Thiên trụ thì rồi sau thành vương phi. Quý nhân khắc cung Niên Mệnh, Thiên trụ thì Thiên tử không vui, phải nên dãi bầy.
42.Xem dẫn người triều cận.
Lấy cung cửa Hưu, Can Năm, Can Ngày Niên Mệnh mà quyết.
Can năm là Thiên tử, Can Ngày là người dẫn triều kiến, Can Ngày Niên Mệnh được Can Năm đến sinh, lại có Ba kỳ cùng phù thì toàn tốt. (Can Năm sinh can Ngày là bề trên đã tin dùng người tiến cử, Can Năm sinh Can Niên Mệnh là bề trên gặp mặt đã thích người được tiến dẫn). (mọi việc cứ thế mà suy).
Lại có cung cửa Hưu được Kỳ Nghi tới thì dẫn đến Thiên tử tất vui mà được mến chuộng.
Như Can Năm không đến sinh cung Can Ngày Niên Mệnh, cũng không khắc chế, mà cửa Hưu được Kỳ đến sinh cung Can Ngày Niên Mệnh cũng tốt. (Cửa Hưu là cửa tốt, lợi về việc yết kiến quý nhân, nay đến sinh Can ngày tất cuộc gặp đó được Quý nhân yêu mến).
Nếu Can Năm đến khắc Can Ngày Niên Mệnh, lại vào Không vong, Mộ, Phế, cùng là cửa Hưu không được Kỳ Nghi cách cát thì không lợi.
43.Xem mồ mả.
Đất mồ mả là nơi người chết ở, lành thì được phúc, hung thì có họa. Bởi vì linh hồn tổ tiên ở nơi Suối vàng mà yên thì con cháu hưng vượng, không yên thì con cháu bại vong.
Nếu chưa táng mà xem trước thì phép này chuyên trách cứ vào cửa Tử và sao ở 2 bàn Thiên Địa mà quyết.
Lấy Sao Địa bàn ở cung cửa Tử là người chết, Sao thiên bàn ở cung cửa Tử là người sống. Cung cửa tử có ba kỳ cùng với sao Địa bàn sinh nhau, hòa nhau, không khắc chế nhau thì người chết yên. Sao Địa bàn sinh sao Thiên bàn, sao Thiên bàn được Ba kỳ thì người còn người mất đều yên lành, sau rồi hưng vượng.
Ví cung cửa Tử cùng với sao Địa bàn cung khắc nhau thì người sống, người chết đều không yên. Sao Địa bàn khắc sao Thiên bàn, không có Kỳ môn hộ trì thì người sống người chết đều hung, cửa Tử phản ngâm thì rời đi nơi khác sẽ cát. Cửa Tử gặp Không vong thì đất không có khí, sơ nhà báu người chết.
Lại lấy Can gì, thần gì, cách gì mà suy. Được sao cát, can cát, sinh vượng thì cát. Thần hung, cách hung, can khắc chế thì hung.(Đây là nói sao Thiên bàn. Đáng ngờ là nói sao của 2 bàn trên dưới. Vậy nên đợi gặp bậc cao minh mà hỏi).
44.Xem sáu giống nuôi chạy mất.
La, lừa, thuyền xe thì lấy cửa Thương làm chủ. Trâu dê thì lấy cửa Tử làm chủ. Xem đến nơi nào trên thiên bàn thì đi về phương ấy mà tìm. Ngựa thì lấy sao ở cung Kiền, Đoài làm chủ. Nếu được sao Thiên Bồng thì nên đi đến xứ gần nước mà tìm. Như có Huyền vũ là người lấy trộm đem đi. Ngày tìm được phải được cách Canh.
45.Xem văn võ lên chức.
Phép lấy 2 cửa Khai, Đỗ làm chủ. Quan văn thì xem cửa Khai. Quan võ thì xem cửa Đỗ.
Hai cửa có Ba kỳ, lại được vượng tướng sinh nhau, sinh can Ngày Niên Mệnh thì tất được thăng chức. Thái tuế lâm sinh Can Ngày Niên Mệnh tất là có Thiên tử đặc chỉ. Trực phù lên sinh là Ty trên bảo cử. Nguyệt kiến đến sinh can Ngày Niên Mệnh và cửa Khai là bộ thân bảo cử. Cửa Khai lại được vượng tướng sinh nhau thì lên chức nhanh. Được cửa, không được Kỳ cũng thăng. Được Kỳ, không được Cửa thì chỉ được gia hàn chứ không được thăng.
46.Xem giáng chức.
Cửa Khai bị khắc, quan văn giáng chức. Cửa Đỗ bị khắc, quan võ giáng chức. Phản ngâm thì chuyển đi nhận nơi khác. Không vong thì tất bị cách chức. Vào Mộ không những bị giáng phạt mà còn bị tội lỗi nữa.Thái tuế đến khắc thì Thiên tử không vui. Trực phù đến khắc thì Ty trên bắt tội. Can Tháng đến khắc thì bộ thần bắt tội.
Như thấy Huyễn vũ là án trộm cắp. Bạch hổ là án mạng. Chu tước là Ấn tín. Đằng xà là chịu trách phạt. Thái âm thì bãi chức. Lục hợp, Câu trận là bị bắt.
Nếu 2 cửa Khai Đỗ vượng tướng sinh nhau với cung, hoặc được Ba kỳ, cách cát thì tuy có bị bắt bẻ mà không ngại.
47.Xem cầu quan.
Lấy cung cửa Khai và cung Can Ngày Niên Mệnh mà quyết.
Cung cửa Khai sinh cung Can Ngày Niên Mệnh, lại được ba Kỳ, cửa cát, cách cát thì được quan phải nhanh. Không được Ba kỳ, cửa cát, cách cát thì được quan chậm. Gặp Phản ngâm thì không được.
48.Xem đi nhận chức phương nào.
Lấy thiên bàn cửa Khai tới cung mà quyết. Cửa Khai tới 4 cung trong thì gần, tới 4 cung ngoài tất đi xa. Độn dương từ Khảm đến Tốn là trong, từ Ly đến Kiền là ngoài. Độn Âm thì ngược lại.
Lại lấy Can ở địa bàn mà chia ra thành 9 châu: Giáp là Tề, Ất là Đông di, Bính là Sở, Đinh là Nam man, Mậu là Hàn Ngụy, Kỷ là Trung Châu, Canh là Tần, Tân là Tấn, Nhâm là Yên, Quý là Bắc dịch.
Tý là Tề, Sửu là Ngô, Việt. Dần là Yên. Mão là Tống. Thìn là Trịnh, Hàm đan. Tỵ là Sở. Ngọ là Chu. Mùi là Tần. Thân là Tấn. Dậu là Triệu. Tuất là Lỗ. Hợi là Vệ.
Thấy Huyền vũ thì dân ấy nhiều trộm cắp. Thấy Bạch hổ chủ hay đánh nhau gây thương tích. Thấy Chu tước thì hay kiện cáo. Thấy Đằng xà thì nhiều điều quái lạ. Thấy Thái âm thì hay gian dâm.
Thiên ẤT, Thanh long, Lục hợp là nơi có lễ nghi, phong tục tốt. Câu trận thì lắm tranh nhau về đất cát.
49.Xem đồng sinh thi.
Lấy sao Thiên phụ là quan hỏi thi, Kỳ Đinh là văn chương. Can ngày là đồng sinh.
Kỳ Đinh có Cửa (Môn) đến sinh Can Ngày Niên Mệnh, hợp môn cát, cách cát mà được Thiên phụ đến sinh tất đậu cao. Hoặc Can Ngày Niên Mệnh, Kỳ Đinh hợp Môn cát, cách cát, không được Thiên phụ đến sinh cũng được đậu. Kỳ Đinh, can ngày Niên Mệnh không được Môn cát, cách cát mà có Thiên phụ đến sinh thì là văn hiến thi ân, không vì văn chương hay dở mà cũng được lấy đậu.
Ví Phản ngâm, Phục ngâm, vào Mộ là có chép lại văn cũ, không được lấy đậu. Rơi vào Không vong thì văn làm chưa xong.
Kinh Thương 2 cửa là quyển văn bị cắt xén. Cửa hưu có thần hung, cách hung xung khắc can ngày Niên Mệnh thì là văn chương có tẩy xóa nhem nhuốc.
50.Xem thi tuế khảo.
Lấy sao thiên phụ là quan trường, Can Ngày là trò đi thi. Kỳ Đinh là văn chương.
Thấy Thiên phụ đến sinh Kỳ Đinh và Can ngày Niên Mệnh, lại hợp Kỳ Nghi cách cát, có 3 cửa cát thì tất là rất cát, đỗ đầu. Như Kỳ Đinh, Can Ngày Niên Mệnh tới cửa Cảnh thì đậu thứ nhì. Được Môn không được Kỳ, được Kỳ mà không có Môn, hoặc cùng Thiên phụ tỷ hòa thì đậu thứ 3.
Như Kỳ Đinh gặp cung Không vong, Can Ngày Niên Mệnh lại gặp thần hung, cách hung thì đậu thứ tư.
Nếu bị Thiên phụ đến khắc thì rớt.
51.Xem khoa cử.
Lấy Trực phù là quan chánh chủ khảo. Can tháng là phó chủ khảo. Thiên Ất, Chu tước là văn chương, là quan trong rèm. Cửa Cảnh, Kỳ Đinh Can Ngày là sĩ tử.
Lấy cung Trực phù sinh cung Can ngày là cung cửa Cảnh, Kỳ Đinh, lại hợp thành cách cát thì chắc đậu cao. Can tháng đến sinh cũng vậy. Chu tước đến sinh Cửa Cảnh, Kỳ Đinh thì quan trong rèm gắng tiến, không sinh thì không tiến.
Cung cửa Cảnh, Kỳ Đinh khắc cung Trực phù, Can tháng thì quyển văn tuy hay mà chủ khảo không ưa. Khắc cung Chu tước thì không tiến. Gặp cách hung thì văn chương lạc đề, gặp Không vong, vào mộ thì phạm trường quy. Gặp Huyền vũ thì lời văn ngoa ngoắt sai lạc, không trúng. Can Ngày gặp cung Không vong, được Trực phù, can tháng đến sinh thì văn chương tuy hay mà trên bảng không tên. Trực phù, Can Ngày, Chu tước tới Không vong thì quyển văn không vào mắt chủ khảo, vào Mộ cũng không trúng. Sau trường thấy 2 ngựa Thiên mã, Dịch mã và Thái xung thì không trúng, cần gì đợi xem bảng.
52.Xem thi đình
Lấy cửa Cảnh, Kỳ Đinh là văn chương.
Như cung can Năm đến sinh cung cửa Cảnh, Kỳ Đinh, lại được Kỳ môn cách cát tất trúng đỉnh giáp. Cung Can Năm sinh cung cửa Cảnh, kỳ Đinh, không được Kỳ môn cách cát thì trúng nhị giáp. Cung can Năm không sinh cung cửa Cảnh, kỳ Đinh, mà cửa kỳ này lại vượng tướng thì trúng tam giáp. Cung can năm không sinh cung cửa Cảnh, kỳ Đinh, lại Phản ngâm, vào Mộ thì không trúng. Hoặc khắc cung can Năm, lại có thần hung thì không những không trúng lại còn bị tội nữa.
53.Xem khoa thi võ.
Lấy sao Thiên xung là quan giám thí. Lấy Can Ngày là người đi thi. Giáp Tuất Kỷ là cái cung. Giáp Thân Canh là mũi tên, cửa Cảnh là văn bài. Cửa Thương là ngựa.
Giáp Tuất Kỷ, Giáp Thân Canh cửa Thương đều tới cung vượng tướng, cùng can Ngày cùng sinh nhau thì trường ngoài thi hợp, khắc nhau thì trường ngoài trở cách.
Lại lấy Giáp Ngọ Tân là hồng tâm, Canh trên cung Tân thì tên bắn trúng hồng tâm. Canh tới Cấn Kiền thì tên bắn trúng 4 góc. Tới Tốn Chấn Khôn Đoài thì tên bắn trúng hai bên. Tới Không vong thì tên bắn không trúng. Canh tới cung gần kể như không trúng. Niên Mệnh Can Ngày được Thiên xung đến sinh lại kiêm cửa Cảnh Kỳ Nghi có cách cát thì bắn trúng, trái thế thì không trúng.
Vũ đồng (trẻ nhỏ thi võ) cũng phỏng thế.
Văn Hán Văn Dịch
Chiêm nhân sinh quý tiện Xem kiếp người sang hèn
Kỳ pháp tiên minh Phép này trước xét rõ
Đối cửu lý nhất tố tâm Đội chín giẵm một cầu tìm
Tiết khí siêu thần bát môn phối hợp cửu cung Khí tiết thần siêu Tám môn phối với chín cung
Cửu cung yêu đới tam kỳ Chín cung cần có ba kỳ
Niên Nguyệt Nhật Thời yêu vượng tướng Năm tháng ngày giờ cần vượng tướng
Bát Môn cửu cung tu suy di Tám cửa chín cung phải đối giờ
Ly cung đấu diện Cung Ly đấu mặt
Kiền Cấn lưỡng túc Kiền Cấn hai chân
Kiền Nhĩ Tả thủ : Khôn Vai, Tai , tay tả : Khôn
Tốn, Chấn tại hữu thủ cân Tốn, chấn là tay hữu, gân
Khảm vi âm thận Khảm là âm thận
Trung vi tâm phúc Giữa: bụng, long, phân
Niên can phụ mẫu, Nguyệt can Huynh đệ, Nhật can bản thân, Thời can thuộc Nhi Can năm cha mẹ, Can tháng anh em đó, Can ngày thân ta, Can giờ con nhỏ tìm.
Suy cập thê thiếp, đấn khán Ất Đinh chi lạc cung Suy tới vợ cùng thê thiếp, xem nơi Ất Đinh tọa lạc cung
Canh vi phụ định bất di Canh là chồng phép không sai lệch
Yếu tường tê kỳ cường nhược, tức năng quyết kỳ vinh khô Xét mạnh yếu mà định bổng chìm, tức biết sang hèn.
Vượng tướng đắc kỳ, thả phú thả quá Vượng tướng thêm Kỳ vừa sang vừa có
Tử Tù Mộ Tuyệt cực tiện cực ban Tử Tù Mộ Tuyệt vừa khó lẫn hèn
Cách cục yêu phân kinh trọng Cách cục chia ra năng nhẹ
Mệnh vận nghiệm kỳ đắc thất Mệnh vận nghiệm ở mất còn.
Vị bô cục tiền khán Cô Hư Chưa bày cục, trước xét Cô Hư
Vượng tướng tức khai khẩu tất biện Vượng tướng thì mở miệng rộng bàn
Thiên địa thừa thời Thái Bạch nhập Kiền Khôn, phụ mậu tảo niên luân một. Ngẫm theo trời đất: Thái Bạch tới Kiền Khôn , Cha Mẹ tuổi thơ khuất bóng
Như nhược lâm huynh đệ cung vị, thủ túc cánh thi thủ địch Nếu lâm cung huynh đệ, tay chân lục đục thù ghen.
Nhật Kỳ bị Hình ,Trang Sinh ta thán Nhật kỳ bị Hình, thầy Trang than thở
Thời trang phùng chí Đặng Thông cô nhi Can giờ gặp phải Đặng Thông không con
Sinh Môn sản nghiệp Cửa sinh sản nghiệp
Yếu đắc Môn Kỳ Môn Kỳ phải cần
Thành bại phân ư nội ngoại Trong ngoài chia phần thành bại
Sinh khắc quyết kỳ đắc thất Sinh khắc là lẽ mất còn
Sinh Môn Thái Bạch phùng sung hãm, bôi to ly hương chi khách. Cửa Sinh Thái Bạch hãm cung, xa tổ ly hương làm khách
Bị cung khắc phục tận phụ tận tỏ phụ cựu viên Ví lại thấy bị xung bị khắc: ruộng vườn tiên tổ bán sạch trơn.
Sinh tại ngoại nhi thân tại nội, tất thiên cư nhi phát phú. Sinh ở ngoài mà thân ở trong, rời tổ ra ngoài mà giàu có
Thân tại ngoại nhi thân tại nội, túng hữu tổ nghiệp việc nan dong Thân ở ngoài mà sinh ở trong, của cha mẹ để lại chắp chân bon
Thân sinh nhị cung câu tại nội an hưởng Lộc Mã Thân sinh hai cung đều ở trong, an hưởng ngựa xe tớ thầy phúc ấm
Thân sinh cầu tại ngoại cung viên phương sáng lập chi thân Thân sinh hai cung ngoài đóng, phương xa gây dựng làm nên
Nhật Trực Cô thời trực Hư thiếu niên vô ý Ngày gặp Cô giờ gặp Hư tuổi trẻ không nơi nương tựa
Thời lạc Cô nhật lạc Hư lão hậu quan độc Giờ gặp Cô ngày gặp Hư về già góa bụa chon von
Mệnh bị xung khắc khất thực đạo lộ Mệnh bị khắc xung, ăn mày đường phố
Nhật lâm Tuyệt Mộ nan thích sầu my Ngày vào Tuyệt Mộ khó tránh mày nhăn
Tai vượng sinh quan, cái nhân “Phi điểu điệt huyệt” Tài vượng sinh quan vì được cánh chim bay về tổ ấm
Ngao đầu độc lập, tất đắc “thanh Long phản thủ” Ngao đầu đứng riêng, bởi được phương Rồng xanh ngoái cổ lên
Thiên Phụ vượng tướng, đắc Kỳ Môn, văn minh hàn uyển Thiên Phụ vượng tướng, được Kỳ Môn, vườn Hàn rạng rỡ.
Thiên Xung vượng tướng đắc Kỳ Nghi, uy chấn biên cương Thiên Xung vượng tướng được Kỳ Nghi, oai chấn ngoài biên
Thiên Cầm vị chấn trung cung, đắc Kỳ Môn bách quan nguyên thủ Thiên Cầm vị ở cung trung được Kỳ Môn tất trăm quan đầu sỏ
Ương tinh Hữu Bật hợp cát cách, đỉnh nại ( ) nguyên huân. Sao Ương, Hữu Bật hợp cách cát, phải là công cả vượt trên
Thiên Trụ trực ngôn gián nghị Thiên Trụ lời ngay, là quan gián nghị
Thiên Tâm nhập viện, y dược tôi lương Thiên Tâm vào nội, thầy thuốc là quan
Nhậm vị Tả Phụ tư nông chi chức Thiên Nhậm sao Tả Phụ, giữ chức khuyến ruộng vườn
Thiên Nhuế bất khả đắc địa, phùng Kỳ Môn, tao Đống chi lưu Sao Thiên Nhuế mà không đắc địa, gặp Kỳ Môn là phường họ Đổng phong lưu
Bồng tinh vị chấn Bắc viên, đắc Kỳ Môn bạn quân chi tặc Sao Thiên Bồng giữ ngôi phương Bắc, được Kỳ Môn giết chúa là tên
Khai môn hữu kỳ, ứng chi văn chức Cửa Khai có Kỳ, giữ chức quan văn
Thương môn đắc lệnh, định hệ hổ thần Cửa Thương được lệnh, hổ tướng ngồi trên.
Sinh môn đắc Kỳ, Thạch Sùng phú túc Cửa Sinh gặp Kỳ, Thạch sùng giầu có
Cảnh môn hợp cục, Đan Thiên văn minh Cửa Cảnh hợp cục, vẻ sáng Đan Thiên
Kinh môn hợp thức, hiếu biện chi nhân Cửa Kinh hợp thức, người chuyên miệng mép
Kiền cung vi Khai, bạch đầu xuất nhậm Cung Kiền gặp Khai, tóc bạc mới làm quan
Tử môn đắc Kỳ Cửa Tử gặp Kỳ
Chức tại ty Hình Làm quan nơi Hình bộ
Phân bổ Bát Môn tinh thần Chia bảy tám Môn tinh thần
Kỳ Nghi hợp cục giả, hào phú hào quý Kỳ Nghi hợp cục, vừa phú vừa quý
Thất cục giả, hạ đẳng bình quân Không thành cục, bọn thấp dân đen
Khai môn Tâm tinh giai thị Kim tiêu, hữu khí y bốc tinh tường. Nhược trự Tử Tù thủ nghệ tân can. Cửa Khai sao Tâm đều Kim: có khí thì bói giỏi thuốc hay. Gặp Tử Tù công nghệ chân tay khó nhọc
Hưu môn Thiên Bồng đồng nhất Thuỷ tiêu, hữu khí, bính mậu lại dịch. Trực Tử Tù quân ngọ tặc nhân. Cửa Hưu Thiên Bồng cùng Thủy có khí lính cơ thầy lại. Gặp Tử Tù là phường giặc giã binh quèn.
Sinh môn Thiên Nhậm thị Thổ tú, đắc địa giả, điền địa phú túc. Nhược thất thời, đồng công nông vận Cửa sinh Thiên Nhậm là Sao Thổ, đắc địa thì lắm ruộng nhiều vườn; không gặp đất cày sâu vác nặng.
Thương môn Thiên Xung giai vị Mộc tiêu, hữu khí bính lịch chi thủ, Trực Từ Tù : mã hậu tương bôn Cửa Thương Thiên Xung đều Mộc cả, có khí thì thầy cai ngài đội; gặp Tử Tù: hầu ngựa chân quen.
Đỗ môn Thiên Phụ diệc thị Mộc tiêu, hữu khí mãi thị hàn nho; Trực Mộ Tuyệt tăng sơn đạo lâm Cửa Đỗ Thiên Phụ đều là Mộc. có khí thì lạnh lẽo đồ nho, gặp Mộ Tuyệt thầy tăng thầy đạo.
Cảnh môn Thiên Ương thị Hỏa tiêu, hữu khí hành hành uy liệt chi biểu, toàn thất cục trị bạo lực chi nhân Cửa Cảnh Thiên Ương đều thuộc Hỏa, có khí thì đường đường oai vệ. Không thành cục thì gánh vác nhọc nhằn.
Tử môn Thiên Nhuế giai thị Thổ tiêu, hữu khí Triệu Ngụy gia trưởng; trực Mộ Không cơ cùng chi nhân Cửa Tử Thiên Nhuế đều là Thổ, có khí thì Triệu Ngụy đàn anh; gặp Không Mộ mỏng manh kiệt quệ
Kinh môn Thiên Trụ………… Cửa Kinh Thiên Trụ…………..
Bát môn biện biệt vượng tướng, tái luận cửu tinh Tám cửa đã xem vượng tướng, chín sao nay phải đem bàn:
Đắc Thiên Bồng tinh thấu thời, biện cương chi tướng; thất địa lại quân tốt cực nhân Được Thiên Bồng gặp thời lệnh, tất làm tướng trấn biên cương; thất địa lại là quân là giặc
Thiên Nhậm đắc địa, Điền thổ lộc mã chi phú; thụ khắc: nông nô tân khổ chi nhân Thiên Nhậm mà gặp thời, ruộng vườn xe ngựa giàu có; ví bị khắc: cày cuốc khó khăn
Thiên Xung hữu khí giả vũ quý, bối thời xa thuyền giang hồ chi lưu Thiên Xung có khí, võ nên sang; trái thế: thuyền ngựa sông hồ trôi chảy.
Thiên Phụ vi tả khu, đắc chí giả văn nhã sĩ hoạn, thất địa lợi cùng tạo họa công Thiên Phụ là tả khu, gặp thời thì văn hay nhẹ bước; thất thời thì thầy tu, thợ vẽ bon chen.
Thiên Ương hỏa tỵ nam Ly, thừa quyền giả tất chủ văn minh, bội thời giả cham bạo hôn dong Thiên Ương là hỏa phía Nam Ly, được lệnh thì chủ văn minh, không được thời thì bạo tàn ngu tối
Thiên Nhuế bài thị hắc tinh, đắc thiên thời tính ác bá đạo, thất thiên thời mục lị dong công. Thiên Nhuế vốn là sao đen, gặp được thời thì là ác bá, không gặp được thời thì đày tớ lầm than.
Thiên Trụ vị chấn Tây viên, hữu khí giả thiệt biện đượng thế; bị xung khác tu kỹ nhạc công Thiên Trụ phương Tây ngôi Chấn, có khí thì miệng lưỡi nhạo trời , không được khí phường chèo thợ nhạc.
Thiên Tâm nguyên tại Thái Bạch, đắc địa giả tài hoa quốc trụ, nhược Không, Mộ cửu lưu tương tầm Thiên Tâm nguyên là Thái Bạch, gặp được thời tài hoa cột trụ nước. Ví Không Mộ lưu lạc khắp chốn.
Thanh Long phản thủ, ngao đầu độc chiếm Rồng Xanh ngoái cổ, đầu ngao độc chiếm
Phi điểu diệt huyệt, ca phú nhi thành danh Chim bay về tổ, giầu có nổi tên
Thanh Long đắc quang, ấp trưởng huyện lệnh Rồng xanh được sáng, huyện quan, xã trưởng.
Đinh giả Mậu phú gia chi danh Sáu Đinh trên Mậu giàu có tiếng tăm.
Bạch Hổ xướng cuồng, hung ngoan chi bối Hổ trắng gào cuồng, phường ngu bọn ác
Thanh Long đào tẩu, nhu nhược chi nhân Rồng xanh chạy trốn, hèn yếu tồi tàn.
Cánh chủ nhân thê thành bại Vốn đã bại, thành vì vợ
Nhi chủ tả bói là thân Còn mình dựa dẫm nhàn thân
Chu Tước đầu giang, đao bút thư lại Sẻ đỏ lao sông, bút đao thấy lại
Đằng Xà yêu kiều, độc tàn tiểu nhân Rắn bay uốn éo, lòng dạ độc thâm
Thất thời giả mục manh nhĩ quý Không gặp thời mắt mờ tai điếc
Thừa khí giả, hỏa phấn thương thân Khí mà nhiều, lửa đốt thương thân
Thái Bạch nhập Huỳnh-hoặc giả tiến, chủ tiền bận hậu phú, Huỳnh-hoặc nhập Thái Bạch giả thoái, chủ gia nghiệp tiêu điều Thái Bạch vào Huỳnh-hoặc là lên, hẳn phải trước nghèo sau giàu có; Huỳnh-hoặc vào Thái Bạch là xuống, chắc là nhà cửa tiêu tàn.
Thiên Ất Thái Bạch, Thái Bạch Thiên Ất, đa thành đa bại Thiên Ất Thái Bạch, Thái Bạch Thiên Ất, nhiều thành nhiều bại
Thái Bạch đồng cung, huynh đệ lôi phân Thái Bạch cùng cung, sét đánh anh em.
Thái Bạch Bồng Tinh, thê thất thường bệnh Thái Bạch Bồng Tinh, vợ thường bị bệnh
Bồng Tinh Thái Bạch, duy bạc thanh xú Bồng Tinh Thái Bạch rèm mỏng xấu tên
Đại cách giả, bình tích tứ hải Cách Đại thì cánh bèo bốn biển
Tiểu cách giả, tạm thời thanh bần Cách Tiểu thì lắm lúc nghèo hèn
Niên Nguyệt Nhật Thời cá cách, tức…lục thân nhi suy khứ Năm tháng Ngày giờ cách ấy, tức lấy sáu thân mà suy xem.
Khán thị hà cung trắc nghiệm Xem thấy ở cung nào mà lường nghiệm
Nhi vi bội lệ vô lẽ tương tòng Biết rằng sai trái không theo lẽ bên
Suy cập phụ mẫu, huynh đệ, thê tử. hiến thủ khả dĩ tường minh. Suy đến vợ con, anh em , cha mẹ. hơn chăng có thể biết hay liền
Tân vi thiên ngục, Nhâm vi địa lao Tân là ngục trời, Nhâm là lao đất
Chủ là hạ chi phạm, cánh chủ uất ức nan thân Ngôi thì thấp kém , ức ngậm nan ngâm
Quý vi Thiên cương, tu khán cao đô Quý là lưới trời, nên xem cao thấp
Cao giả hóa vi hoa cái, khả suy quý cách Cao ấy hóa là lọng hoa, suy ra cách quý.
Đệ giá Thiên cương triền thân tịch tịch cơ hàn Thấp ấy lưới trời bó thân lạnh lẽo nghèo hèn.
Pha kỵ Ngọc nữ thủ môn Cung kỵ Ngọc Nữ thủ môn cách ấy
Thê tùy nhân hành Vợ theo người khác đi
Ất Đinh thê thiếp khán thị thùy sơ Ất Đinh thê thiếp, xét thân sơ xa gần
Ất kỳ nhập Mộ, thê bất sinh tử Kỳ Ất vào Mộ, vợ không con cái
Đinh Ất đồng cung, biệt tục tương thân Ất Đinh đồng cung, cả lẽ thương bền.
Ất Kỳ tại thượng Ngữa lên thấy ấy
Thê thiếp hiệp hòa Thê thiếp hòa hiệp
Đinh gia Ất thượng, tân hạnh phu tâm Đinh trên có Ất, lòng chồng buồn vui.
Chư cách kỳ lạc không vong Mọi cách kỵ gặp Không vong
Cát giả hàm xương, nhi khổ giả cánh khổ Cát thì may mắn, mà khổ lại khổ thêm.
Nhược lâm Mộ Tuyệt chi địa, vô cáo cùng dân Ví vào Mộ, Tuyệt: đáng mặt dân hèn
Bát môn suy lai, tôi phả phản ngâm Tám môn suy tới, rất sợ phản ngâm.
Phục ngâm diệc thị hung thần Phục ngâm đúng là hung thần.
Ngũ hành phối hợp Năm hành phối hợp
Tư lý thụ hình Ấy lẽ chịu hình.
Tại hồ nhất tâm dư bất tận ngôn đồng chí giả thúc chân. Tại lý một lòng dư không nói hết, bạn đồng chí biết cho
Chia sẻ bài viết:
LÊ CÔNG
0919.168.366
PHÚC THÀNH
0369.168.366
Một số cách an sao vòng Trường Sinh trong tử vi
TÍNH CÁCH, MẪU NGƯỜI, TRONG LÁ SỐ TỬ VI
7 nguyên tắc cơ bản sau cần phải xem kỹ trước khi bình giải một lá số Tử Vi
THẾ NÀO LÀ TUẾ PHÁ & NGŨ HOÀNG ĐẠI SÁT
BÍ QUYẾT SONG SƠN NGŨ HÀNH VÀ THẬP NHỊ THẦN ĐẠI PHÁP (TIÊU SA NẠP THỦY THEO THỦY PHÁP TRƯỜNG SINH)
Ý nghĩa của việc thờ bàn thờ Ông Địa
“BẢN GỐC” CỦA THƯỚC LỖ-BAN DÀNH CHO CÁC BẠN THẬT SỰ HAM MÊ PHONG THỦY !!!
LÊ LƯƠNG CÔNG
Trụ sở: Số 12, Trực Cát , Vĩnh Niệm, Lê Chân, Hải Phòng
Tel: 0919.168.366 - Hotline: 0919.168.366 - Email: nhadatcongminh@gmail.com
Copyright © 2019 https://leluongcong.com/