Đoạn trước nói về Kiền Khôn giao cấu, là nói về Ngoại Dược. Đoạn này nói về Mão Dậu chu thiên. Nói về Nội Dược.
Ngoại Giao Cấu là Sau lên Trước xuống. Một Thăng Một Giáng Nội Giao Cấu là Tả Tuyền, Hữu Chuyển, nhất Khởi, nhất Phục. Đôi đằng vận chuyến, giống như Tuyền Ki, cho nên Nguỵ Bá Dương nói: Tuần Hoàn tuyền ki, thăng giáng thượng hạ, chu lưu lục hào, Nan dĩ sát đổ 循環旋璣, 升降上下, 周流六爻, 難以察睹(Tuyền Ki tuần hoàn, lên xuống, dưới trên, chu lưu sáu hào, khómàlường được). Người đời chỉbiết Kiền Khôn giao cấu, màkhông biết Mão Dậu Chu Thiên, nhưcóxe không bánh, nhưthuyền không lái. Nếu muốn chởxa, làm sao mà được?
Cho nên Chỉ Huyền Thiên viết:
Luân Hồi, Ngọc Thố dữ Kim Kê,
輪回玉兔與金雞,
Đạo tại nhân thân nhân tự mê.
道在人身人自迷.
Mãn mục tận tri điều Thuỷ Hỏa,
滿目盡知調水火,
Đáo đầu kỷ cá thức Đông Tây?
到頭幾個識東西.
Nhật nguyệt hai vầng luôn thăng giáng,
Đạo tại nơi người, người chẳng biết,
Suốt ngày chỉ học điều Thủy Hỏa,
Đông Tây tuần hoàn lại chẳng hay.
Đông là Mộc (Tính), Tây là Kim (Tình). Một vật phân đôi, nên mới Đông Tây gián cách.
Nay nhờ Đẩu Bính Tuyền Ki oát chuyển, nên Mộc Tính ái Kim, Kim Tình luyến Mộc, hai bên giao kết, nên Kim Mộc tương giao, Thủy Hỏa tương tế, nên Đan Kinh gọi là Hòa hợp Tứ Tượng.[1]
Cho nên Trương toàn Nhất (Diên Hỏa bí quyết) nói:
Đại dược chi sinh hữu thời tiết,
大藥芝生有時節,
Hợi mạt, Tí sơ, chính bán dạ.
亥末子初正半夜.
Tinh thần tương cấu hợp quang hoa,
精神相媾合光華,
Hoảng hoảng hốt hốt sinh minh nguyệt,
恍恍惚惚生明月,
Cấu bãi lưu hạ phún bào nhiên,
媾罷流下噴泡然,
Nhất Dương lai phục hưu khinh tiết,
一陽來復休輕泄,
Cấp tu bế tại Thái Huyền Quan,
急須閉在太玄關,
Thủy bức Dược quá Vĩ Lư Huyệt,
水逼藥過尾閭穴.
Thái thời dụng mục thủ Nê Hoàn,
采時用目守泥丸,
Thùy hạ tả thượng thả ngưng yết.
垂下左上且凝歇.
Vị chi chiêm lý não thăng huyền.
謂之瞻理腦升玄.
Hữu biên phóng hạ phục khởi triết,
右邊放下復起折.
Lục lục số hoa dược thăng Kiền.
六六數華藥升乾.
Dương cực Âm sinh vãng hữu thiên.
陽極陰生往右遷.
Tu khai quan môn dĩ thoái Hỏa,
須開關門以退火,
Mục quang hạ chúc thủ Khôn điền.
目光下矚守坤田.
Hữu thượng tả hạ phương ngưng trụ,
右上左下方凝住,
Tam bát số Liễu nhất chu thiên.
三八數了一周天.
Thử thị thiên nhiên chân hỏa hậu,
此是天然真火候,
Tự nhiên thăng giáng, tự sưu thiêm.
自然升降自抽添.
Dã vô Huyền Vọng dữ Hối Sóc.
也無弦望與晦朔.
Dã vô Mộc Dục cộng Trường Thiên.
也無沐浴共長篇.
Dị danh tiễn trừ thí dụ tảo,
異名剪除譬喻掃,
Chỉ tư lưỡng cú thị Chân Thuyên.
只斯兩句是真詮.
Đại dược sinh ra có thời tiết,
Cuối Hợi, đầu Tí lúc nửa đêm.
Nguyên Tinh, Nguyên Thần đồng kết hợp,
Quang hoa rực rỡ như Minh Nguyệt.
Kết hợp xong rồi lưu Phún Bào.
Nhất Dương lai phục không khinh tiết,
Mau đem về dấu tại Huyền Quan.
Nước bức Dược qua Vĩ Lư Huyệt,
Hái thuốc, mắt hướng về Nê Hoàn,
Lim dim tả vãng, thượng ngưng kết.
Dùng công lực mắt vận chuyến óc,
Đem thẳng Nội Đan về Nê Hoàn.
Hữu biên phóng hạ, phục khởi triết,
Lên xuống tuần hoàn 36 sáu lần.
Dương cực Âm sinh rồi Hữu chuyển,
Rồi phải mở cửa để Thoái Hỏa,
Mắt đưa xuống dưới giữ Khôn Điền.
Tòng Hữu biên thượng, Tả biên hạ,
Ba tám: hăm bốn một Chu Thiên.
Lúc ấy Tự Nhiên Chân Hỏa Hậu,
Tự nhiên thăng giáng, tự sưu thiêm,
Hết còn Huyền Vọng, còn Hối Sóc,
Hết còn Mộc Dục hết Trường Thiên.
Dị danh tiễu trừ, thí dụ bỏ,
Chỉ còn Hai Chữ ấy Chân Thuyên.
Phép này dùng sau phép Kiền Khôn Giao Cấu, thì Kim Đơn sẽ không hao tán. Trước hết, đem Pháp Khí trụ Thái Huyền Quan (Vĩ Lư), rồi hành khí tới Khôn Tề (Rốn). Lâu sau, sẽ từ phía tả đưa lên Kiền Đỉnh (Đỉnh Đầu). Ngưng một chút, rồi từ phía Hữu giáng xuống Đan Điền (Rốn). Thế là một độ. Rồi lại từ Rốn lên đỉnh đầu, rồi lại từ Đỉnh Đầu xuống Rốn. Làm như vậy 36 lần, thế là tiến Dương Hỏa. Sau 36 lần đó sẽ khai quan để Thoái Âm Hỏa. Lại khởi từ Rốn, tòng Hữu mà đi lên đỉnh Đầu. Rồi lại theo tả biên mà về Rốn. Xoay vòng như vậy 24 lần. Đó là thoái Âm Phù. 24 vòng là xong.
Trương Tử Dương nói:
Đẩu cực kiến tứ thời, 斗極建四時
Bát tiết vô bất thuận. 八節無不順
Đẩu cực thiệt ngột nhiên, 斗極實兀熱
Khôi Tiêu tự di động. 魁杓自移動
Chỉ yếu lưỡng nhãn kiểu. 只要兩眼皎
Thượng hạ giao tương tống. 上下交相送
Tu hướng tĩnh trung hành, 須向靜中行
Mạc hướng mang lý tống. 莫向忙里送
Bắc đẩu định tứ thời,
Bát tiết không sai thác.
Bắc Đẩu vốn không động,
Đuôi sao Khuê xoay vần.
Chỉ cần tinh đôi mắt,
Trên dưới trông cho rành.
Xem sao cần tĩnh lãng,
Lòng phải thật quang minh.
Tại sao phải dùng mắt sáng suốt? Thưa vì mắt là Dương Khiếu. Toàn thân con ngưới là Âm, chỉ có một điểm Dương ấy mà thôi. Ta dùng một điểm Dương ấy, từ dưới lên trên, từ trái sang phải, chuyển vận vô cùng, để chiến thoái quần Âm. Như vậy Dương Đạo ngày một trưởng, Âm đạo ngày một tiêu. Cho nên Dịch Kinh nói: Long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng 龍戰于野其 血玄黃 (Ngoài đồng Rồng đánh lộn nhau, Máu phun chan chứa pha màu vàng đen).[2] Lại có thể khiến cho một khí lưu hành, tuần hoàn trên dưới, nên công năng của mắt thì thật là lớn vậy.
Vả khi con người vừa mới kết thai, Thiên Nhất sinh Thủy, thì Tròng Đen sinh trước, Đồng Tử sinh sau, thuộc Thận; Địa Nhị sinh Hỏa, mà có hai vành mắt; thuộc Tâm. Thiên tam sinh Mộc, mà có tròng đen, thuộc gan; Địa tứ sinh Kim, mà có tròng trắng, thuộc phổi; Thiên Ngũ sinh Thổ, mà có da trên dưới mắt, thuộc Tì.
Cứ xem như thế, thì tinh hoa ngũ tạng đều phát nơi mắt. Sau khi Thầy ta chỉ Khiếu cho ta, ta quan sát thai những người bị tiểu sản, hay thai trâu bò, hay xem trứng khi chưa thành con, thì bao giờ cũng thấy đôi mắt sinh trước khi tạng phủ thành hình, cho nên tôi biết đôi mắt là «Tiên Thiên Chi Linh», quán xá của Nguyên Thần đến đó du chơi.
Hoàng Cực Kinh Thế viết:
Thiên chi Thần, Thê vu mục,
天之神棲于目,
Nhân chi Thần, Phát vu mục.
人之神發于目.
Thần của Trời, Ngự đôi mắt.
Thần con người, Phát tại mắt.
Lớn thay là câu nói: Nhân chi Thần phát vu mục. 人之神發于目.
Khi sinh thân, thì vật đó sinh ra trước; khi thân diệt, thì vật đó mất đi trước. Ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ kết hợp tại đấy, Linh khí của Tâm, Can, Tì, Phế, Thận tập trung tại đó. Nước rãi, nước mắt, Tinh, Tân, Khí, Huyết, Dịch bảy thứ đó đều kết tụ tại đó. Nó lớn thì thiên địa không chỗ chứa, nó nhỏ thì thì hào mao cũng không nạp. Đó há chẳng phải là báu vật trong thân ta hay sao?
Nội chỉ Thông Huyền Quyết viết:
Hàm quang tiện thị Trường sinh dược,
含光便 是長生藥,
Biến cốt thành Kim Thượng Phẩm Tiên.
變骨成金上品仙.
Nhãn Tình chính thật Trường Sinh Dược,
Biến Cốt thành Kim, Thượng Phẩm Tiên.
Thượng Dương Tử viết:
Huyền vi diệu quyết vô đa ngôn,
玄微妙訣無多言,
Chỉ tại Nhãn tiền nhân bất cố.
只在眼前人不顧.
Huyền vi diệu quyết chẳng nhiều lời,
Rành rành trước mắt người chẳng ngó.
Sùng Chính Thiên vân:
Ban vận hữu công liên trú dạ,
搬運有功連晝夜,
Oát tuyền chí diệu thể Tuyền Ki.
斡旋至妙體璇璣.
Nội khí vận hành Liên trú dạ,
Mắt xoay kỳ diệu giống Tuyền Ki.
Hoả Hầu Ca vân:
Dục thấu Huyền Huyền tu cẩn độc,
欲透玄玄須謹獨,
Cẩn độc công phu cơ tại mục.
謹獨工夫機在目.
Chuyên Tâm cẩn thận thấu Huyền Cơ,
Cẩn Thận công phu do mắt đó!
Trần Nê Hoàn nói:
Chân Âm Chân Dương thị Chân Đạo,
真陰真陽是真道,
Chỉ tại nhỡn tiền hà viễn thảo.
只在雅前何遠討.
Chân Âm Chân Dương là Chân Đạo,
Nó ngay trước mắt, chớ tìm xa!
Tiết Đạo Quang nói:
Phân minh chỉ tại nhỡn tình tiền,
分明只在眼睛前,
Tự thị thời nhân bất kiến Thiên.
自是時人不見天.
Phân minh trước mắt chẳng xa vời,
Chỉ tại con người chẳng thấy Trời.
Lưu Hải Thiềm viết:
Hạ giáng thượng thăng tuần cốc trục,
下降上升循轂軸,
Tả toàn hữu phúc hợp khu cơ.
左旋右覆合樞機.
Hạ giáng, thượng thăng theo cột sống,
Tả toàn, hữu chuyển hợp Khu Cơ.
Vương Tử Chân nói:
Tạc tiêu Xá Nữ khải Linh phi,
昨宵奼女啟靈扉,
Khuy kiến thần tiên hội Tử Vi.
窺見神仙會紫薇.
Bắc Đẩu, Nam Thần tiền hậu bố,
北斗南神前後布
Lưỡng luân Nhật Nguyệt vãng lai phi.
兩輪日月往來飛.
Đêm qua Xá Nữ (Nguyên Thần) mở cửa ra.
Nhìn thấy Thần Tiên họp đỉnh đầu.
Nam Tào, Bắc Đẩu sau trước bố,
Nhật Nguyệt hai vầng bay lại qua.
Tiêu Tử Hư nói:
Như Long dưỡng châu thường tự cố,
如龍養珠常自顧,
Như Kê phục noãn thường tự bão,
如雞伏卵常自抱,
Kim Dịch Hoàn Đơn tại nhãn tiền,
金液還丹在眼前,
Mê giả đa nhi ngộ giả thiểu.
迷者多而悟者少.
Như Rồng có ngọc thường lưu ý,
Như Gà ấp trứng cũng như y.
Kim Dịch Hoàn Đơn, trước mắt có,
Biết ra thì ít, mê lại nhiều.
Trần Túy Hư nói:
Bất thị đăng quang Nhật Nguyệt tinh,
不是燈光日月星,
Dược Linh tự hữu dị thường minh.
藥靈自有異常明.
Thùy Liêm cửu thị quang minh xứ,
垂帘久視光明處,
Nhất lõa đường đường hiện Bản Chân.
一顆堂堂現本真.
Không đèn, mà độc ánh sáng sao,
Nội dược trong người sáng biết bao.
Chỉ cần nhắm mắt, nhìn trong dạ,
Đan điền sẽ rạng ánh Bản Chân.
Thuý Hư Thiên viết:
Mạc vị Kim Đơn sự đẳng nhàn,
莫謂金丹事等閑,
Thiết tu cần khổ lực toàn nghiên,
切須勤苦力鑽研.
AÂn cần hảo dữ sư tư luận,
殷勤好與師資論,
Bất tại tha đồ tại mục tiền.
不在他途在目前.
Đừng nói luyện Đơn là chuyện dễ,
Ắt phải khổ công phải điều nghiên.
Cần Thầy chỉ dần, cần tha thiết,
Đạo Trời trước mắt chớ nhọc tìm.
Huyền Áo Tập viết:
Thanh Ngưu nhân khứ kỷ đa niên,
青牛人去幾多年,
Thử Đạo phân minh tại mục tiền.
此道分明在目前.
Dục thức mục tiền Chân Đích xứ,
欲識目前真的處,
Nhất đường phong lãnh, nguyệt Thuyền quyên.
一堂風冷月嬋娟.
Thanh ngưu (Nguyên Thần) tìm kiếm mất nhiều năm,
Kỳ thật Nguyên Thần tại mục tiền,
Hiểu được Đôi Ngươi (2 tròng mắt) chân tác dụng,
Nhất Dương lai phục, nội đan thành.
Trần Nê Hoàn nói:
Đại Đạo phân minh tại nhãn tiền,
大道分明在眼前,
Thời nhân bất hội ngộ qui tuyền.
時人會誤歸泉,
Hoàng Nha bản thị Kiền Khôn khí,
黃芽本是乾坤氣,
Thần Thủy căn cơ dữ Hống liên.
神水根機與汞連.
Đại Đạo (Chân Lý) phân minh tại mục tiền,
Thế nhân không biết tưởng Qui Tuyền.
Nội Đan chính thực Kiền Khôn Khí,
Thần Thủy với Hống vốn tương Liên.
Huyền Học Thống Tông viết:
Kỷ hồi đẩu sưu thượng Côn Lôn,
幾回抖搜上崑崙,
Vận động Tuyền Ki tạo hóa phân.
運動璇璣造化分,
Trú Dạ chu nhi hoàn phục thủy,
晝夜周而還復始,
Anh Nhi tòng thử trường tồn.
嬰兒從此長存.
Mấy lần vận dụng thấu Nê Hoàn,
Bắt chước Tuyền Ki chuyển Tuần Hòan,
Ngày đêm phản phục xoay vần chuyển,
Nội đơn nhờ thế sẽ trường tồn.
Quan Ngô (Phàn Hoặc Ca) viết:
Giá cốt đổng, đại áo diệu,
這骨董大奧妙,
Diệu tại thường hữu quan kỳ khiếu.
妙在常有觀其竅,
Thử khiếu phân minh tại mục tiền,
此竅光明在目前.
Hạ sĩ văn chi tắc đại tiếu.
下士聞之則大笑.
Điều tạp nhạp này thật áo diệu,
Áo diệu tại chỗ quan kỳ khiếu.
Khiếu này thật sự trước mắt thôi,
Hạ sĩ nghe qua tức phá cười.
Kim Đơn phú viết:
Long hô, hổ hấp,
龍呼虎吸,
Hồn thôn Phách thổ.
魂吞魄吐.
Nam Bắc giao cấu vu Thủy Hỏa,
南北交媾于水火,
Mão Dậu luân hoàn vu Tí Ngọ.
卯酉輪還于子午.
Tổng quát Kiền Khôn chi sách,
總括乾坤之策,
Ưu du biến hóa chi chủ,
優游變化之主.
Tử Mẫu bao la vu khuông quách.
子母包羅匡廓.
Dục dưỡng nhân y vu đỉnh phủ.
育養因依于鼎釜.
Nguyên Thần, Nguyên Khí tương hô hấp,
Hồn Phách thôn thổ tương y
Nam Bắc giao cấu vu Thủy Hỏa,
Mão Dậu xoay vần qua Tí Ngọ,
Tóm lại luyện đan chi kế sách,
Đều lấy an nhàn làm pháp thuật.
Đôi mắt hàm tàng đủ Thần Khí,
Dưỡng dục chung qui tại Đan Điền.
Quần Tiên Châu Ngọc vân:
Giác trung giác Liễu, ngộ trung ngộ,
覺中覺了悟中悟,
Nhất điểm Linh Quang vô già hộ.
一點靈光無遮護.
Phóng khai Liệt diệm chiếu Ta Bà,
放開烈焰照娑婆,
Pháp giới tung hoành độc hiển lộ.
法界縱橫獨顯露.
Giá ta tiêu tức thậm u vi,
這些消息甚幽微,
Mộc nhân diêu chỉ bạch vân qui,
木人遙指白雲歸,
Thử cá Huyền Quan khẩu nan thuyết,
此個玄關口難說,
Mục tiền kiến đắc tiện vong ki.
目前見得便忘機.
Giác ngộ chung qui giác ngộ rồi,
Ánh sáng Đan Điền chẳng dấu ai,
Phóng khai lửa rực chiếu Ta Bà,
Pháp giới tung hoành độc hiển lộ,
Tin tức này xem thật u vi.
Mộc nhân chỉ nẻo bạch vân qui,
Điều huyền diệu ấy khó nói rõ,
Mắt thấy qua rồi sẽ quên Ki (Cơ sảo)
Nam Cốc Tử nói:
Chí đạo bất viễn hề, 至道不遠兮
Hằng tại mục tiền. 恆在目前
Thiết thiên địa chi cơ hề, 竊天地之機兮
Tu thành thai tiên. 修成胎仙
Chí Đạo chẳng có xa,
Luôn ở trước mắt ta.
Trộm được bí quyết Trời,
Tu sẽ thành Đại Tiên.
Thuần Dương Tử vân:
Hữu nhân vấn ngã tu hành pháp,
有人問我修行法,
Dao chỉ thiên biên nhật nguyệt luân.
遙指天邊日月輪.
Có kẻ hỏi ta phép tu hành,
Ta chỉ trời cao Nhật Nguyệt luân.[3]
Các lời trên là của chư tiên. Tất cả đều luận về phép Hành Khí. Tiết bàn về Công Phu này với tiết bốn là cùng một Lý. Trên dưới tương ứng nhau, như một chuỗi ngọc. Thái thủ dược vật thì từ Khúc Giang (Hạ Đan Điền). Tụ Hỏa mà đem nó về Đỉnh Đầu. Nguyên Thần Nguyên Khí kết hợp với nhau ở Thượng Đan Điền. Tuần hoàn vận chuyển lên kết hợp tại Thượng Đan Điền.
Trương Tử Dương nói:
Đô lai phiến hướng Công Phu, 都來片餉工夫
Vĩnh bảo vô cùng dật lạc. 永保無窮逸樂
Chỉ mất chút công phu,
Có vô cùng an lạc.
Khinh thanh thời ngưng tụ Nê Hoàn, trọng trọc thời xuống Khí Hải. Ngày đêm cứ thế mà thêm bớt, cứ thế mà hoà hợp. Hống ngày một nhiều Diên ngày một ít. Lâu ngày Diên sẽ cạn, Hống sẽ khô. Kết thành một viên ngọc Ma Ni. Đó là Kim Dịch đại hoàn đơn vậy.
Cho nên Mã Nghi Thủ viết:
Thu đắc thủy trung Kim, 收得水中金
Thái đắc Bồ Đề Tử, 采得菩提子
Vận đắc Côn Lôn phong, 運得崑崙風
Trường thọ vô sinh tử. 長壽無生死
Thu được Chân Nguyên Khi,
Hái được hạt Bồ Đề,
Đem lên được Nê Hoàn,
Là được Trường Sinh mãi.
Cho nên Diên ở trong Khảm, vốn là Chân Tinh của cha, Hống ở trong Ly vốn là Chân Huyết của Mẹ, Khi Kiền Thể bị phá, thì hai vật chia thành hai. Cho nên thường nhân thì ngày một đi vào con đường ly cách, ly cách mãi cho đến chết. Còn các bậc chí nhân, thì phòng theo cái thể của hai quẻ Kiền Khôn, và cái dụng của quẻ Khảm, Ly; đoạt thần công; cải thiên mệnh; đem Diên của quẻ Khảm, chế Hống của quẻ Ly; đem hào dương của quẻ Khảm, thay hào Âm của quẻ Ly. Như vậy Âm sẽ tận, Dương sẽ thuần, trở lại Thuần Kiền.
Cho nên Trương Tử Dương nói:
Thủ tương Khảm vị tâm trung thật,
取將坎位心中實,
Điểm hóa Ly cung phúc nội Âm.
點化離宮腹內陰.
Tự thử biến thành Kiền kiện thể,
自此變成乾健體,
Tiềm tàng phi dược tận do Tâm.
潛藏飛躍盡由心.
Hãy lấy Hào Dương nơi quẻ Khảm,
Điểm hóa quẻ Ly hào giữa Âm.
Do đó biến thành Kiền kiện thể.
Tiềm tàng thăng giáng sẽ do tâm.
Lời bình của Dịch giả:
Như vậy bí quyết luyện đơn chỉ là: Thủ Khảm điền Ly, biến Ly thành Kiền. Nghĩa là làm sao vứt bỏ hết những gì nhơ nhớp xấu xa trong con người, chỉ còn lại những gì trong sáng, tinh hoa nhất của con người. Y thức như Nho gia nói: Khử nhân dục, tồn Thiên Lý, hay nhân dục tận, Thiên Lý hiện.
______________________________
[1] Tứ tượng là Nhãn Nhĩ Tị Thiệt, tương ứng với Can Thận Tâm Phế, cho thấy sự thể hiện của Thủy Hỏa Kim Mộc, đó là điều xưa nay không tiết lộ.
[2] Hào Thượng Lục, Quẻ Khôn.
[3] Tức chỉ Nguyên Khí, Nguyên Thần.
st : Lê Công
Chia sẻ bài viết:
LÊ CÔNG
0919.168.366
PHÚC THÀNH
0369.168.366
Một số cách an sao vòng Trường Sinh trong tử vi
TÍNH CÁCH, MẪU NGƯỜI, TRONG LÁ SỐ TỬ VI
7 nguyên tắc cơ bản sau cần phải xem kỹ trước khi bình giải một lá số Tử Vi
THẾ NÀO LÀ TUẾ PHÁ & NGŨ HOÀNG ĐẠI SÁT
BÍ QUYẾT SONG SƠN NGŨ HÀNH VÀ THẬP NHỊ THẦN ĐẠI PHÁP (TIÊU SA NẠP THỦY THEO THỦY PHÁP TRƯỜNG SINH)
Ý nghĩa của việc thờ bàn thờ Ông Địa
“BẢN GỐC” CỦA THƯỚC LỖ-BAN DÀNH CHO CÁC BẠN THẬT SỰ HAM MÊ PHONG THỦY !!!
LÊ LƯƠNG CÔNG
Trụ sở: Số 12, Trực Cát , Vĩnh Niệm, Lê Chân, Hải Phòng
Tel: 0919.168.366 - Hotline: 0919.168.366 - Email: nhadatcongminh@gmail.com
Copyright © 2019 https://leluongcong.com/