Phàm thủ tượng ngũ hành, bản tượng thủ bản tượng, như loại Giáp Ất Bính Đinh là tượng mộc hỏa. Hóa tượng thủ hóa tượng, như Mậu Quý, Đinh Nhâm, cũng là loại tượng mộc hỏa.
Tượng kim thủy không thể thấy thổ, gọi là thổ tạp thủy hỗn, thì kim sẽ không thanh. Tuế vận gặp thổ cũng trì trệ, duy chỉ có kim thủy là không tạp, sinh ở mùa thu là rất quý.
Như mệnh Minh Thần Tông: Quý Hợi, Tân Dậu, Quý Hợi, Tân Dậu, có can chi đều là thuộc kim thủy không tạp, tháng kim sinh thủy, là kim trợ thủy thanh, thành tượng hai thủy hai kim, gọi là kim bạch thủy thanh, đặc biệt không có xen tạp, lại hợp có Lưỡng Can bất tạp, cho nên tôn làm thiên tử.
Như tạo: Quý Dậu, Quý Hợi, Canh Tý, Tân Tị, là kim sinh tháng thủy, kim lại bị thủy tiết khí, chìm ở trong Hợi Tý, cho nên không tránh khỏi họa về nước.
Tượng kim thổ không thể thấy mộc, là mộc khắc thổ, thì thổ không thể sinh kim, là không thành tượng vậy.
Thổ tích trữ thành kim, thổ nhiều kim ít, là phúc thật dày. Kim trọng thổ khinh, phúc đầy vất vã.
Tượng kim hỏa không thể thấy thủy, thấy thủy thì hỏa diệt kim chìm mà không thể thành khí.
Kim trọng hỏa khinh, phát trễ mà lợi thọ; kim khinh hỏa trọng, phát sớm mà thoái nhanh, hoặc chủ thọ giảm.
Tượng kim mộc không thể thấy hỏa, vì Hoạt mộc sợ kim thấy hỏa thành tú, Tử mộc được kim mới thành tạo hóa;
Kim trọng mộc khinh, thì bệnh đau xương cốt; Mộc trọng kim khinh, chủ tổn hại tiền tài hoặc đánh nhau mà phế tật, duy kim mộc thích hợp thì cát.
Tượng thủy mộc tú mà thanh cao, không thể thấy Mão Tị, vì thủy tử tuyệt;
Tượng mộc hỏa tú mà phong phú, không thể thấy kim, vì mộc bị khắc. Lưu niên mà gặp thì có họa.
Tượng thủy hỏa thành Ký tế là rất tốt, hoặc là Vị tế cũng được, không thể thấy thổ, tính hỏa nhiều thì táo khô, thủy nhiều thì bệnh mắt. Hỏa sợ Tý thủy sợ bị tắm, nhập Dậu thì hỏa tử thủy tắm, chủ gian nan mà chết. Tuế vận giống vậy, tượng ngày kị ngày giờ.
Tượng thủy thổ không thể thấy hỏa, thổ trọng thủy khinh, tú mà không thực; thủy trọng thổ khinh, lại có khoa danh.
Tượng hỏa thổ không thể thấy thủy, hỏa hư thổ tụ không thành vật, nếu cùng thủy lưu thì chủ chìm không còn.
Như Mậu Tý Mậu Ngọ Kỷ Sửu Kỷ Mùi, Đinh Tị Đinh Hợi Bính Thìn Bính Tuất. Bính Đinh cùng Mậu Kỷ kẹp nhau, chính là hỏa hư thổ tụ.
Lý Cửu Vạn Mậu Tý Kỷ Sửu Mậu Ngọ Kỷ Mùi, Bính Thìn Đinh Tị Bính Tuất Đinh Hợi, đều là tượng hỏa thổ hỗn tạp, không thể vì liên châu là quý.
Thời thượng (trụ giờ) gặp Nhâm Quý thủy, là thổ trệ hỏa diệt, cả đời gặp trở ngại.
Lại nói:
Hỏa hỏa thấy thì thì ám, thổ thổ thấy hỏa thì hư.
Thổ khinh hỏa trọng thì táo khô, là ngày Kỷ Mão thấy giờ Nhâm Dần vậy.
Hỏa khinh thổ trọng không sáng, là ngày Đinh Dậu thấy giờ Mậu Thân vậy.
Như Hàn Học sĩ: Mậu Tuất, Đinh Tị, Mậu Tuất, Đinh Tị, thành tượng hỏa thổ, lại là Phượng Hoàng can chi cách, cho nên quý.
《 Kinh 》nói:
Kim thủy đa thanh, kim thổ đa hậu, là tương sinh; Kim hỏa đa cương, kim mộc đa chính, là tương khắc. Hỏa thổ nhiều là hại, hỏa mộc nhiều là thông, hỏa thủy nhiều là mê muội; hỏa kim nhiều là cương trực. Mộc hỏa là văn chương tài hoa, mộc thủy là trong sạch; mộc kim là phương thẳng, mộc thổ là độc hại, thủy hỏa trí tuệ, thủy mộc là trí nhân, thủy kim là tú lệ, thủy thổ nặng đục, đều lấy ngũ hành mà suy.
Phàm mệnh sợ cùng loại tương phá:
Như Kỷ Mùi thấy Giáp Thìn, Giáp Thìn thấy Kỷ Sửu, Kỷ Sửu thấy Giáp Tuất, Giáp Tuất thấy Kỷ Mùi.
Phàm ở đất tứ xung, nạp âm cùng loại, lần lượt đếm nghịch hai vị. Dần Thân Tị Hợi, Tý Ngọ Mão Dậu, cũng thủ lấy chỗ này, chủ cả đời không đủ, đa số không thành khí.
《Đạo kinh 》nói: Tỉnh Lan hỗ phá, giống như có bác sĩ mà không có thuốc, gần giống như gặp Không vong, tuế vận cũng kị.
Phàm mệnh, Chủ Bản gặp Tuế Vận, không thể gặp Tử địa. Như Bính Dần hỏa sợ Ất Mão thủy, Tân Tị kim sợ Đinh Dậu hỏa, Giáp Thân thủy sợ Kỷ Mão thổ, Mậu Thân thổ sợ Nhâm Ngọ mộc, Kỷ Hợi mộc sợ Giáp ý kim. Cùng đồng nghĩa với người sống sợ chết. Chủ Bản sinh tử giống như Đồ tắc bất kị.
Phàm mệnh rất sợ Quỷ khắc mà tổ Quỷ là tối độc.
Như loại Bính Tý thủy thấy Canh Tý thổ, Đinh Sửu thủy thấy Tân Sửu thổ.
Trong tổ vào vị trí tương khắc, cho nên nói là tối độc.
Có Quý trong mộ, như loại Nhâm Thìn thủy thấy Bính Thìn thổ, Bính Thìn thổ thấy Mậu Thìn mộc;
Có Cách bích Quỷ (kề Quỷ), như loại Canh Tý thổ thấy Quý Sửu mộc;
Có Không vong Quỷ, như Giáp Tuất thấy Giáp Thân Ất Dậu, đều là có hại.
Ở trong Quỷ mộ thì nhẹ có Tổ Quỷ, Cách Bích Quỷ nhẹ hơn mộ Quỷ, Không Quỷ nhẹ hơn Bích Quỷ.
Nếu người mệnh mộc được tháng là hỏa, ngày giờ là kim, có hỏa khắc kim, kim không được hại mộc, là Ngự Quỷ vậy, quỷ không làm hại.
Như người mệnh thủy, tứ trụ có hỏa thổ, thổ khắc thủy, hỏa lại sinh thổ, là trợ giúp Quỷ vậy, thì Quỷ càng hung.
Can chi thông suốt, nạp âm là tối khẩn, Ngự Quỷ thì lúc lập thân là gian nan, còn trợ quỷ thì cốt nhục đa số phát sinh đấu phá.
Nếu trong quỷ có quỷ, gọi là Quỷ Khiếu (Quỷ gọi). Như người mệnh thổ sinh tháng mộc, có ngày giờ là kim, lấy mộc khắc thổ, kim khắc mộc, căn cơ xấu nhược thì hung, Chủ Bản mà cường kiện thì không kị.
Như một mệnh: Kỷ Mùi, Ất Hợi, Bính Dần, Tân Mão, gặp tam hợp sinh, lại gặp Dần Mão là Kỷ nhập đất Quan, Bính và Tân hợp, là đại quý; là vì Kỷ âm thổ gặp Ất mộc là Quỷ, lại gặp Tân là quỷ của Ất mộc, biến Quan Dần Mão làm Quỷ của Kỷ thổ, ở vị trí tam hợp Hợi Mão Mùi, là thông cho Quỷ khắc, phạm Quỷ Khiếu vậy, cho nên chủ chết hung.
《 Kinh 》 viết:
Trên ngũ hành thiết kị hạ tặc,
Cả đời không đủ việc vòng quanh.
Lại viết:
Quỷ Khiếu phân minh cách cục ác,
Lại thêm hình sát họa không sai.
Dẫu có khiến tiền đồ phú quý,
Định biết ngày sau ghét cảnh già.
Phàm xem mệnh thủ Thai Sinh Vượng Khố là Tứ Quý, Tử Tuyệt Bệnh Bại là Tứ Kị, còn lại là Tứ Bình. Lấy can Thái tuế làm chủ, phối với ngũ hành, thủ vị trí Tứ Quý, Tứ Bình, Tứ Kị mà phân ra quý tiện, gặp quý nhiều thì quý, gặp kị nhiều là tiện. Trong Tứ Quý lại phân ra tứ vượng, khố là cao, Thai là thứ. Nếu Thai nhân mệnh gặp tháng ngày giờ có ba Quý, can đều có phụ trợ hoặc có Chính lộc, Chính Quan, Chính Ấn, là mệnh tam công vậy.
Mang đúng Thiên Ất: Như người sinh Sửu Mùi, tháng ngày giờ được loại Giáp Mậu Canh;
Mang gốc Lộc: Như người sinh Dần, tháng ngày giờ có Giáp, gọi là hội phúc hoặc là Thiên Ất Quý hợp coi trọng cả hai, cũng là mệnh tam công vậy.
Ba quý hợp kèm theo trên dưới, hoặc có một Quan, một Ấn cùng một Chính Thiên Ất, hoặc là một vị gốc Lộc, hai ba vị hợp quý nhân, là mệnh quan Tể phụ vậy.
Nếu ở trên ngày giờ gặp hai quý và kèm theo như ở trên thì cũng vậy.
Nếu ở trên một vị gặp các thần Tai Sát, Địa Sát, Vong Kiếp, Dương Nhận, kiêm chủ nắm binh quyền, địa vị như Tư Mã Tiết Việt.
Nếu sinh tháng Thai, trên tháng và ngày giờ gặp một quý khố Thai, lại kem theo chính Thiên Ất, trên dưới hợp hoặc Thiên Ất quý hợp gốc Lộc Chính Quan, Chính Ấn, nhưng gốc Lộc có khí, hoặc trên Quý nhân cũng mang trước ở can Lộc, cũng là mệnh Tể Phụ, Cửu Khanh vậy.
Nếu tháng ở kị thần, mà ngày gặp quý, hoặc ngày ở kị thần, mà giờ gặp quý thì không hại, là chức đi hầu vua; nếu ngày giờ đều có quý, mà giờ gặp kị thần, chỗ này thường là người hay bị điều động tuyển chọn vậy.
Tứ Kị là chủ bần tiện, cũng có khinh trọng, tử bại tuyệt là trọng, bệnh là khinh. Ở mổi ngũ hành có ba vị, như người Bính Đinh gặp Dần Ngọ Tuất thành hỏa là quý, cùng giống như có ba vị Tứ Quý. Duy có khuyết Thai một vị Quý, phúc là chủ quý, cũng giống như tứ quý.
Dương Lộc quý ở Lâm quan, Âm Lộc quý ở đế vượng, nếu Dương Lộc gặp vượng, Âm Lộc gặp lâm quan, tuy là bản vị, nhưng phúc giảm nửa.
Nếu vượng mà không có lộc, như Bính Dần gặp ngày giờ Mậu Ngọ, càng khắc bản mệnh, lại kèm theo hình sát, chủ ngu tiện dâm đãng. Có gặp 1,2 vị quý, lại thành hung sát, hình hại phá gặp càng nặng, cũng chủ không có lộc.
Thẩm Chi nói: Ngũ hành lấy sinh vượng là vua, lâm quan là tướng, nếu nạp âm là mộc, tháng ngày giờ gặp hai vị Dần Mão, kim gặp Thân Dậu, thủy gặp Hợi Tý, hỏa gặp Tị Ngọ, thổ gặp Thìn Tuất Sửu Mùi, đều lấy quý luận.
Phàm xem mệnh, phân ra ngũ hành sinh vượng tử tuyệt, như:
Giáp Thân, Bính Dần, Kỷ Hợi, Tân Tị, Mậu Thân, đều là ngũ hành tự Trường Sinh. Không luận tứ thời, lý lẽ tách ra nhưng tự được sinh, bẩm tính nhân mệnh thông minh trí tuệ siêu quần, được quý thì từ tứ tiến lên. Được phú quý, cũng cầm hướng vinh cho nên mà được sinh vậy.
Bính Tý, Mậu Ngọ, Tân Mão, Quý Dậu, Canh Tý, đều là ngũ hành tự Vượng. Không đợi tứ thời, mà vẫn có thể dẫn đến vượng, phúc lực phấn phát, không có cần so sánh qua lại.
Quý Mùi, Nhâm Thìn, Bính Thìn, Giáp Tuất, Ất Sửu, đều là ngũ hành tự Mộ vậy. Chính là lúc quy căn phục mệnh, phàm chỗ ở khố tất vật muốn tụ thì khố đầy đủ, như Nhâm Thìn thủy, muốn được nhiều thủy tụ trở về, sau đó là vượng. Lại có kim lui tới tương sinh, nên được trọng quyền. Nếu thủy chế hỏa, hỏa chế kim, lại đến không trung, thì gọi là phụ Ấn không khởi, chủ bần tiện.
Ất Mão, Đinh Dậu, Nhâm Ngọ, Giáp Tý, Kỷ Mão, chỗ này là ngũ hành tự Tử vậy. Sinh chính là nhọc, Tử chính là ngừng, lý là tự nhiên. Đất không có tửa, vật tự không có chỗ mà quay về, chỗ nói là tự tử , lý chỗ này là được chân quy. Phàm mệnh gặp chỗ này, là đặc biệt thông minh siêu quần, đa tuệ thì thiếu phúc, lấy thân thể yên tĩnh, mà có đầy bất lợi. Là lấy việc đạm bạc, mà dấy lên sự bất lợi, duy chỉ có thể học đạo mà gặp thần tiên, cửa đầu thai kiếp khác vậy.
Quý Tị, Ất Hợi, Canh Thân, Nhâm Dần, Đinh Tị, chỗ này là ngũ hành tự Tuyệt vậy. Thiên đạo không có thể tuyệt chỗ này, can chi đã tuyệt thích hội thì lại sinh. Phàm gặp chỗ này, vui buồn không định, như Quý Tị là thủy tuyệt, được Quý Dậu vượng kim sinh phù. Là nói thủy tuyệt phùng sinh, càng là cát khánh.
Phàm mệnh kèm theo tử tuyệt, sinh vượng, khố mộ, thì không thể liền mang lấy mà nói, cần phải xem nguyệt lệnh để biện thanh trọc.
Thanh, gọi là có chế phục, như thủy bệnh thấy thổ thì đục, lại không có thổ đê phòng thì không thể ngừng nghĩ. Đã ngừng nghĩ thì tức là dần dần có thanh vậy.
Trọc, là nói không có chế phục, như thủy nhiều không có thổ thì chảy tràn lan không có chỗ quy về, mà thủy cực sinh mộc, cực thì biến, biến thì thông vậy.
Bởi vì ngũ hành thường thay đổi mà thường không còn, ẩn là quý mà không quý là hiển, Tử tuyệt có cứu, thì gọi là Hoàn hồn, đa số là lấy quý luận; Sinh vượng có khắc, thì thành Tán khí, trái lại là chủ phúc ít. Nếu nó và ta cùng tương sinh, thuận thì có ích cho ta, nghịch thì đoạt khí. Nó cùng ta tương khắc, thuận thì thế cường, nghịch thì bị thương.
《 Kinh 》nói: Lấy nhỏ phạm lớn, tự lấy hại; lấy nhược thắng cường, tự gây ra họa.
Một thủy khắc ba hỏa, là lấy nhược thắng cường, lấy âm thắng dương, dù họa cũng không mạnh; lấy dương thắng âm, là hại không đậm. Hai dương chống nhau, hung họa rất tức thời; hai âm địch nhau, là chỗ không yên.
Như Ất Tị hỏa khắc Nhâm Thân kim, là lấy âm thắng dương; Nhâm Thân kim khắc Kỷ Tị mộc, là lấy dương thắng âm, là âm dương hữu tình, cho nên không có hại lớn. Như Đinh Mão thấy Quý Dậu, là hai âm đối địch nhau; Mậu Ngọ thấy Giáp Tý, là hai dương chống nhau. Dương cương âm nhu tất thắng mà sau đó rước họa.
《 Thái Ất 》nói: Mấu chốt của âm dương trời đất biến hóa, không phải là không lấy âm mời dương, dương mời âm, thì trời đất hợp chính, khí ngũ hành hòa hợp, chính là vì dương theo ở dương, âm theo ở âm. Thì âm dương thiên lệch, động tĩnh mất thứ tự, cho nên có hai đường họa phúc vậy. Đại để âm dương thiên lệch, tạo hóa không thành ngũ hành, như hỏa nhiều kim ít, tụ tán không thành hình được; hỏa ít kim nhiều, vừa không thể nung chảy, lại có họa dập tắt vậy, còn lại lấy ví dụ mà tự suy.
Phàm xem mệnh, trước tiên luận ngũ hành, thể diện, thế cục, sau đó khảo sát hỷ kị, tốt xấu, vượng tướng, hưu tù.
Như người mệnh kim được Canh Tân hoặc Thân Dậu gọi là Thể diện, được Tị Dậu Sửu tam hợp gọi là Thế cục, hỷ hỏa chế thổ phù, kị kim hàn thủy lạnh, sinh mùa thu tứ quý là vượng tướng, xuân hạ là hưu tù. Còn lại mộc hỏa thủy thổ tự lấy ví dụ mà suy.
Người mệnh Kim gặp Canh Thân, Tân Dậu gọi là Ngũ Ly Sát, nếu sinh mùa thu, gặp thủy thì độc hóa kim, gọi là Kim bạch Thủy thanh; gặp hỏa thì chế cương kim (cương kim là mài kim), là nung thành khí sắc bén; trụ không hỏa không thủy, thì gọi là Ngoan kim, chủ trước kia vì tửu sắc mà thân ốm bệnh chết; Nếu được ngày giờ là Mậu Dần, thì là xứ cương phùng sinh, chủ phú mà thọ.
Người mệnh Mộc gặp thổ, thì gốc rể mượn để vui bồi; được thủy thì càng lá mượn mà rữa tắm; được kim, đẽo gọt mà thành vật dùng vậy. Mộc gặp Dần Mão, lại sinh ở mùa xuân, là rất tốt. Như có tam hợp hội đủ mộc cục, thì không cần sinh mùa xuân, đa số là chủ nhân thọ. Mộc gặp kim chế, có hỏa phục nung kim, thì thành cương nhu tương chế; nếu hỏa quá nhiều, thì thiêu cháy; kim quá nhiều, thì tổn hại; Thổ hư, thì không thể vun bồi; thủy phiếm lạm, thì không thể tư nhuận, kỳ diệu là ở trung hòa.
Người mệnh Thủy lấy Hợi Tý là gốc, lấy Dần Mão Thìn Tị là nạp, can gốc từ Bắc, quay về hướng Đông, cho nên mệnh thủy hỷ gặp Đông phương, thì sóng ngừng sóng phẳng lặng; thủy dựa vào thổ làm đê phòng, nếu sinh Hợi Tý, thổ nhiều thì cát; đã ở Đông phương, gặp thổ cũng cát. Thổ không nên nhiều, lại có Quý nhân, Tài Lộc, thì quý; nếu ngày giờ gặp Canh Thân, Tân Dậu, thủy kị chảy về Tây, e sợ thọ không cao; sinh ở thu đông, sinh vượng thanh trong, lúc này Nhâm Quý mà gặp Hợi Tý, chủ có văn học; lại nạp âm là thủy, thì thủy thái quá, trụ không có thổ đê phòng, là đoán ít con, duy chỉ làm nghệ thuật hoặc đi tu là cát; lại trọng phùng Cách Giác, định chủ hình khắc. Tháng màu Xuân can khát mà khô, mùa hạ nước đục mà chảy tràn lan, trụ không có thủy trợ thì không quý.
Hỏa cư ở Dần Mão, sinh ở mùa xuân, là mộc tú hỏa minh, vinh hoa phú quý; sinh ở mùa hạ thì thái viêm, trong trụ không có thủy, định là mệnh yểu, có thủy hơi quý; sinh ở mùa thu, hỏa tử kim thành, ẩn chiếu ánh sáng bên trong, ngày giờ là gặp vượng khí thì cát. Bởi vì thủy hỏa không sợ tử tuyệt, chỉ có không màng danh lợi; sinh ở mùa đông, trong trụ lại được hỏa trợ giúp, thì sương tuyết biến mất, núi sông ấm áp. Cổ nhân nói: Mùa Đông đáng yêu, mùa Hạ đáng sợ, là chỗ này vậy.
Thổ gặp đủ tứ quý, là Thượng quý. Như nạp âm toàn là thổ, trong trụ lại được chữ Dần là Cấn sơn, cũng quý. Thổ có thể tải dày, sinh sôi vạn vật, kim mộc thủy hỏa đều không có thể thiếu, cho nên bốn hành này, tất cả đều dựa vào thổ vậy.
Nói luận dụng ngũ hành, nhiều thì thái quá, ít thì bất cập. Khí, số, quá dư, không đủ, đều có thể dẫn đến hung; ức dương quy trung, mà sau đó nhận phúc. Công thành thì nên thoái tàng, tương lai là quý ở quang vinh.
Ngũ hành bẩm vượng là nói thành công; vượng mà có thể ngưng nghĩ, thì nói là Thoái tàng. Ngũ hành ở đất quan đới, thai dưỡng, khí thiếu mà chưa đầy, thì nói là Tương Lai. Cho nên muốn Mẫu Tử tương sinh, thì lấy kỳ ích khí, thì có đạo vinh tiến chấn phát.
Như không phải thời kỳ mộc, Suy thì cành thằng, Tử thì héo khô.
Kim vượng thái quá thì động lấy nhiều hung.
Viêm viêm thì quý ở tắt, không tắt thì có họa thiêu đốt.
Thao thao thì quý ở ngừng lại, không ngừng lại thì có họa bởi đắm chìm.
Hỏa hành đất Nam mà hóa nhiệt, nhiệt thịnh thì đốt cháy mãnh liệt mà hại vật, tới Dậu Hợi thì ngầm có hòa thuận, sau đó mà có thể sưởi ấm vạn vật.
Thủy hành đất Bắc mà hóa hàn, hàn thịnh thì quá lạnh mà giết chết vật, tới Mão Tị thì có thể thông dương khí, sau đó mà có thể sinh sôi vạn vật.
Lại có sinh mà không sinh, vượng mà không vượng, chỗ này là hung trước cát vậy; có tử mà không tử, tuyệt mà không tuyệt, chỗ này là cát trước hung vậy.
Như thủy thấy Mậu Thân thổ, chỗ này là sinh mà không sinh; thấy Canh Tý thổ, vượng mà không vượng, gặp chỗ này đa số thành mà lại bại, bởi vì hỷ mà lại lo.
Như thủy thấy Quý Mão kim, chỗ này là tử mà không tử; thấy Tân Tị kim, chỗ này là tuyệt mà không tuyệt. Ngũ hành khí tận mà được dức của phụ mẫu, để sinh ích lợi thì khí lại sinh, gặp chỗ này thì trong nguy mà có phúc, cùng mà thông, khuất mà thân vậy.
Sinh vượng quá quá thì trong phúc tàng họa, tử tuyệt thái quá, thì phúc không thể nắm.
Nếu nói Tử tuyệt phùng Sinh, họa có thể biến mất, trước hết là hỏa thổ, sau đó là kim thủy. Hỏa tuyệt được thổ viết là Duệ (Là hỏa lấy thổ Tử, hỏa tuyệt ở Hợi mà thấy Đinh Hợi thổ vậy); Thổ tuyệt được kim là Tử mà không mất, viết Thọ (là thổ tuyệt ở Tị mà được Tân Tị kim vậy); Kim tuyệt được thủy, thể lại được tinh (Là Kim tuyệt ở Dần, được Giáp Dần thủy vậy); Thủy tuyệt được mộc, hồn lại lên trời (Là thủy tuyệt ở Tị, được Kỷ Tị mộc vậy). Mộc tuyệt được hỏa, hỏa xuất ra mộc thành tro bụi, tro bay lửa tắt, cho nên chỉ thành hung (Là Mộc tuyệt ở Thân, được Bính Thân hỏa vậy) Xà Mã vô đảm có nghĩa là: Xà Mã là ở vị trí Tị Ngọ, mộc qua Tị Ngọ mà tử, mộc ở tạng thuộc gan, ở phủ thuộc mật, làm bằng chứng mộc tử là hung vậy.
Kinh nói: Mệnh thổ gặp hỏa sinh mà dần dần có lợi; mệnh thủy được năm kim sinh là sống thọ; Kim nhiều cần hỏa hoặc tòng cách để thành danh, mộc trọng được kim uốn mà nhận sai khiến Khúc Trực, thủy lưu không ngừng thì cần thổ để giúp đỡ, hỏa thịnh không có chỗ dựa duy chỉ có thủy để giúp đỡ.
Ngũ hành dụng đắc thích hợp, tuy là tương khắc mà thành phúc. Nếu dụng không thích hợp, tuy có tương sinh mà vẫn có họa.
Phàm ngũ hành sợ thái quá ngang ngược, như Lộc nhiều thì bần, Mã nhiều thì bệnh, Ấn nhiều thì , Khố nhiều thì bế tắc, sinh vượng nhiều không có chỗ quy về, tử tuyệt nhiều thì không có phấn chấn.
Ngũ hành không thể quá tổn thương, không thể quá thuần túy.
Quý nhân Mã nhiều, thì thăng chức; thường nhân Mã nhiều thì bôn ba ngược xuôi.
Muốn phá thì họa hại, muốn không thì không hết.
Chỗ thích thì không thể hủy, chỗ sợ thì không thể vượng.
Trước sợ sau thích thì phúc, trước thích sau lo thì họa.
Hợp nhiều không phát mà đẹp, Học Đường nhiều thì không thành;
Quý nhân nhiều thì hèn yếu mà không có lập chí, Lộc Mã quá hiển thì không thể lấy quý nhân luận;
Quý nhân trong ngoài có đủ, thì không thể lấy thường nhân mà luận;
Tứ trụ đều dương, khẩu ác mà tâm thiện; tứ trụ đều âm, là hung ngoan trầm độc.
Củng nên là Củng Mã, củng Lộc, củng Quý, củng Phúc thần, không nên củng Hình, củng Họa, củng Tuế, củng Thời, âm dương quý ở hợp nhau, bệnh thương phải có khắc chế.
Phàm mệnh, Bính Tân Nhâm Quý thấy Mậu Tuất, chính là Nhận Thương nắm đường gãy đổ.
Nhâm Tý, Bính Ngọ, Bính Ngọ, Nhâm Tý, chủ yếu là thủy mộc, là âm dương thuần túy, vị trí còn lại không có trợ giúp, cũng hết sức coi trọng; hơn nữa khí tú quý thì dung nạp đại đức là không có gì sánh bằng, là trượng phu vậy.
Ngày Mão Dậu là đất xuất nhập; cung Tý Ngọ, mới phân ra âm dương, gặp thì mệnh lui tới vô định, tuế vận cũng vậy.
Tị Hợi là đất lưỡng cực, trời đất hòa giải; Dần Thân là phương tam đình, gửi bước qua lại, như người gặp, đa số là không chấp nhất.
Sửu Mùi thì chậm chạp, Thìn Tuất thì nhanh chóng, phương gặp thì người nắm giữ quản lý, tính không thông biến. Thìn Tuất có khí, lại có thể kiến lập đại sự.
Người Bính Tý tứ trụ có Nhâm Dần, là Nhâm vào nhà Bính thì phá, không tốt.
Canh Tý thấy Canh Ngọ, là Ngũ Quỷ lâm môn;
Mậu Dần thấy Giáp Dần, Giáp khắc Mậu, Mậu Dần theo thế khắc Giáp Dần, là can chi nạp âm trên dưới bất hòa. Ngoại trừ có Phúc thần, mới thành lực phúc.
Quý Dậu thấy Mậu Dần, Mậu thổ khắc Quý thủy, lại khí kim hướng đất tuyệt, chỗ ở của Kiếp Sát Nguyên Thần. Ngoại trừ được trong nguyệt lệnh tú khí, mới có thể thành dụng, cũng xấu mà không tốt.
Canh Ngọ, Đinh Dậu là hỗ vượng hỗ phá, là vượng bị phá vậy, không thể hoàn toàn là phúc lực.
Kỷ Mùi, Tân Dậu tuy được Thực, nhưng quy về Tử địa, cuối cũng là xấu không tốt.
Ất Sửu, Ất Mùi, Canh Thìn, Canh Tuất thấy Mậu Dần, rất tốt, vận cũng vậy, 《Kinh》nói: Như được Canh kim giúp, Mậu Dần muốn tuyệt không tuyệt thành phúc lực.
Ất Mão thấy Mậu Dần, Mậu Dần thấy Ất Mão, là mệnh rất tốt.
Sách Đơn Dương nói: Ở trên ranh giới Tam Kỳ có hư thanh, ở trong tử tuyệt lại tồn sinh vượng. Bởi vì tam hợp tam kỳ, không hợp nguyệt phần thì không quý. Như Giáp Mậu Canh, có giờ Tý Ngọ mới quý; Ất Bính Đinh, có giờ Dần Mão mới quý.
《 Sách Thiên Nguyên biến hóa 》nói: Ất Bính Đinh thích Dậu Hợi, lại xem nạp âm có hay không có can thiệp.
Lại nói: Phàm Tam Kỳ, tam hợp, kèm theo trong nguyệt lệnh gặp tú khí, là nhập quý cách, cũng không tránh khỏi làm con nuôi hoặc làm con rễ.
Lại nói: Phàm mệnh thấy tam hợp, tam kỳ, mà gốc năm không mang Tứ Mạnh. Sinh mà được Tứ trọng, Tứ quý. Tháng ngày giờ tứ trọng, tứ quý luận giống vậy, Cùng Thai tháng ngày hỗ hoán, can hợp hoặc lục hợp mà bản mệnh không mang, tất cả ngày đều gọi là Điệu Thái tuế, đa số chủ xa tổ cô lập, là người ít trợ giúp, không đắc lực, lại thích hợp với nghĩa ở Hợp mà lập vậy, quý mệnh thì đa số dựa vào mà thăng tiến.
Phàm tứ trụ kèm theo Tam Kỳ, tam hợp là bản thân nếu không phải là con nuôi vợ thứ, thì tương lai con cái tất có người làm con nuôi, con theo mẹ.
Cổ thơ nói: Tam hợp cùng Tam Kỳ, xin đẹp lại béo phì, không là con nuôi, thì cũng là con theo mẹ.
Phàm mệnh, trước 5 thần là Trạch xá, nếu gặp có khí và cát thần đến, chủ có nơi ở tốt, thuộc nhà quý tộc to lớn, con cháu hiển sáng.
Ví dụ như người Giáp Thân, trạch xá ở Sửu, sinh tháng 12, trụ được Thiên Ất gọi là cát trạch. Nếu chỗ vô khí, cùng hung thần đến, chủ trạch hư hao, phá hoại không còn, không có tổ nghiệp.
Hoặc như người Canh Ngọ, trạch xá ở Hợi, tuần Giáp Tý Hợi lạc Không Vong, lại gặp Kiếp Sát đến là hung. Còn lại chuẩn theo chỗ này mà suy.
Mệnh sau một thần gọi là Phá Trạch Sát, nếu như ở trong Phá trạch, chủ không có sản nghiệp tổ phụ, hoặc khách chết ở đất người.
Lại xem Trạch nạp âm, cùng với bản mệnh nạp âm tương sinh thì cát, trạch khắc thân thì được trạch tốt, thân khắc trạch tất phải phá tán. Ví dụ như Giáp Tý kim, lấy Kỷ Tị mộc là Trạch, sinh tháng 2, thuộc trạch vượng, có hợp trạch là tốt, lấy thân khắc trạch, nên sau phá sản.
Mậu Ngọ hỏa lấy Quý Hợi thủy là trạch, sinh tháng 9, trạch là quan đới; sinh tháng 10, là trạch kiến lộc; sinh tháng 11, là Trạch vượng, lại gặp Trạch sinh khắc thân, tất được trạch tốt. Nếu trong Trạch sinh Quỷ vượng, có Quan thì cát, không có Quan thì hung.
Phàm lộc mệnh tuy có hưu vượng, lại xem Trạch, để biện cát hung.
Thẩm Chi nói: Trạch sợ phạm phá.
Như người Giáp Tý lấy Kỷ Tị làm Trạch, như phạm chữ Hợi, là Trạch bị phá, gốc mệnh khá suy, Thái tuế xung năm cũng cần phá, cần phải giỏi mới có thể đoán, như người Bính Tý được Tân Tị kim là Trạch, gặp loại lưu niên Ất Hợi là đúng. Mệnh tốt, cũng cần thay đổi được động, mới ứng.
Phàm mệnh, sau 5 thần gọi là Điền Viên, nếu cư ở đất có khí, lại có Phúc thần lâm thì chủ điền viên dư đầy, kho tàng phong phú. Ví dụ như lệnh người Giáp Tý, Điền viên ở Mùi, sinh tháng 6, thổ thừa vượng khí, lại gặp Thiên Ất quý là cát. Nếu gặp đất vô khí, lại có hung thần đến, chủ điền viên tích trữ ít, kho tàng hư không. Ví như mệnh Mậu Tý, điền viên ở Quý Mùi, sinh tháng 6 tuần Giáp Thân, Mùi lạc Không vong, còn lại theo chuẩn này suy.
《 Quỷ Cốc di văn 》nói: Mã không có hại (Tài phá), Lộc không có quỷ (Quỷ khắc), Thực không có Vong (Không vong), chi hợp không có gốc (Nguyên thần), Can hợp không có tai ách (Lục Ách), vượng không có tang (Tang Môn), suy không có điếu (Điếu Khách), thê không có Nhận (Dương Nhận), Tài không có phi (Phi Liêm), mạnh không có cô (Cô thần), quý không có quả (Quả tú), thể trọng cần Quỷ, Lộc trọng cần Quan. Phu cần ít, Thê cần gấp bội, cát cần hiển nhiên, hung cần chìm mùi, can chi bất hòa mà bế tắc, vợ chồng thất thời mà hung. Tứ trụ chủ bản, Lộc Mã tới lui qua lại, cần phải phân ra phá lập, Thiên Ất phù trì, nắm đức là xung. Lại biện quý tiện, có căn mà không có mầm quả, bần mà còn được ăn ngọt; bản khí tuyệt mà hoa tốt, dẫu có con mà vị quá kém. Nếu quý thần chủ vị, chư sát phục tàng, tam nguyên vượng tướng, sao chuyên thần sát?
Trong mệnh dụng Sát, lấy ngũ hành làm gốc, như ngũ hành đắc địa không có quý, Sát mà cũng quý, dù có ác sát thì việc là vô hại; nếu ngũ hành không đắc địa, dẫu có cát Sát, cũng phát không lâu, như hoa trong mùa Đông vậy.
Nạp âm , là vũ điệu của trời đất vậy. Dịch Mã, Học Đường, cư ở vị trí Trường Sinh, tài năng quan chức ở đất vượng tướng, chỗ văn chương phú quý ở đất Ấn khố. Như gặp suy bại, thì giảm 1/3; lại gặp tử tuyệt thì mất 1/2. Thiết kị Không vong, xung khắc, không thích hợp gặp hình hại sẽ mất hết. Cho nên Đồng nguyên tương thành (thuận số là ở trên, tạp số là tiếp theo, Đồng nguyên tương thành là số thật ở trên ứng với số tiếp theo), thì vũ điệu của trời đất đầy đủ, cơ bản là cường tráng; Đồng loại tương thương (như loại Đinh Mùi hình Đinh Sửu), thì thần khí tán, lý là không có ghép lại.
Quản Lộ viết: Ngũ hành hỗ tương cùng vượng, tuy xung nhưng khí vẫn còn; Ngũ hành tương khắc, tuy hợp mà khí tán, chỗ này xưng gọi là vậy.
Hoặc hỏi: Cả đời người có thủy chung, công danh phú quý, một khi quật khởi, bỗng nhiên phát triển nhanh chóng; có thủy chung bị tróc ra từng mảng, mà được phấn phát; có trở ngại nữa đời mà về sau lại thành tựu, là tại sao vậy?
Đáp viết: Chẳng ai là không có số mệnh vậy. Từ đầu đến cuối phú quý, chính là trong trụ thân chủ chuyên vượng, chỗ dụng cát thần, hoặc Quan Ấn, Tài Thực, tất cả đều được lệnh kèm theo lộc, không thiên lệch không thành đảng, không có hình xung khắc hại, bước vào cửa hành vận, các bước đều cát, cho nên có thể thành tài năng chấn động, nối tiếp cơ nghiệp của tiền nhân để lại, lập nên công danh to lớn, không gây ra phỉ báng, không dần đến thương hại, chung thủy giữ gìn, mệnh vận là sinh vượng, thể dụng là rất kiên cố vậy.
Một khi quật khởi, bỗng nhiên phát triển to lớn, là do chỗ trong trụ có dụng quý thần, tất cả được vị trí đón vượng, lại còn hợp cách, làm sao mà nhật chủ không có lực, không thể thắng mà nhận phúc, cho nên khốn khó không có; bỗng chốc gặp vận tốt sinh phù nhật chủ được cường kiện, nguyên mệnh dụng thần, mới là ta dụng, ta vì đến đón, hổ gầm gió sinh, đại phát phú quý, là do thiên khí đón thuận hòa, suy mà gặp vượng, cho nên đón cát mà phát, trước sau khác xa.
Cũng có Nhật chủ cường vượng, ngũ hành Sát thuần không tạp, làm sao gốc rễ vốn không có chế phục, phú quý không thành, duy chỉ đợi đến vận, chế phục Sát thần, hóa thành quyền bính, công danh hiển đạt, xuất ra siêu quần, chế thần lực vượng, phát phúc phi thường, cho nên hưng phát, từ bần tiện mà đến cực phẩm, hoàn toàn là do hành vận đắc địa, mới thấy hưng thịnh; như vận không đến, tức là thường nhân vậy.
Từ đầu đến cuối phấn phát, mà ở giữa rơi rụng, chính là trong trụ nhật chủ kiện vượng, dụng thần cũng vượng, tất cả lực lượng quân bình, là người hiền tài con nhà giàu có lầu vàng cửa son, đến khi trưởng thành, phải gặp sao tốt, nếu đại vận cộng thêm nguyên mệnh, thấy Tài là đoạt, vì quan mà bị hại, đến Ấn mà phá hư, gặp Thực mà có có Kiêu. Gặp ranh giới vận này, họa không thể nói hết, cho nên năm thịnh thấy nghiêng mà không phát; như một khi khử ác vận, lại gặp vận tốt phù trì, khiến cho dụng thần hoàn toàn đổi mới. Thí dụ như Khô miêu đắc vũ bỗng nhiên hưng phát, như lông hồng gặp gió cứ bay lên thẳng, không thể điều khiển vậy.
Nếu nửa đời trục trặc, về già thành tựu, chính là tứ trụ thân cường, Dương Nhận Tỉ kiên tất cả đều tranh vượng. Duy các loại Tài Quan Sát thần đều hư phù, nhẹ, ít, không có lực mà thành công danh, ra cửa hành vận, lại không lấy đất phúc, cho nên cả đời cơ hàn, lao khổ, thằng đến lúc về già, bỗng gặp vận tốt, bổ túc cho các loại Tài Quan Sát thần, thành Giả Sát vi quyền, chế phục Dương Nhận, hoặc được quyền quý mà hiển dương, hoặc khởi sinh Tài mà phát phúc, nên tùy theo ngũ hành thanh trọc, lấy chỗ gặp vận mà phân biệt.
Than ôi! có mệnh cùng thông phú quý là do trời, Khổng Tử có nói là vậy, sao người có trí lực có thể di dịch ư!
Hoặc hỏi hưng vong sinh tử?
Đáp viết: Phàm trong sinh mệnh có Sát là dụng, Sát thần không có chế thì là người Bạch ốc cùng đường, hoặc là người giàu có tuyệt luân, phải gặp vận chế phục, Giả Sát mà hưng thịnh, nhất thiết không thể thoát khỏi chế phục. Vận một khi nhập đất Tài, Tài có bè đảng cùng Sát, lại gặp ở llưu niên, là Tài Sát trợ vượng, hợp lực thành tai ương, thân chủ bị cô hàn khắc hại, nhẹ thì khuynh gia bại sản, nặng thì hình khí bản thân. Sát thần cùng hợp, hung vong đáng sợ như vậy. Dương Nhận luận giống vậy.
Lại có trong trụ Nguyệt lệnh là chính khí Quan tinh, là cả đời phú quý, duy chỉ gặp Tài Ấn thì có lợi cho Quan tinh, hỷ Tài vượng, lấy Ấn sinh vượng để bảo vệ, cho nên người có thể hành nhân bố đức, trị quốc kinh bang, quyền trọng tước cao; về sau Sát thần đắc vị, Tuế Sát cùng lâm, Quan hóa thành Quỷ, tất phải tang thân vậy. Không hành Sát vận, hoặc hành Thương quan vận, lại không có Ấn cưỡng chế, Thương quan đắc địa, quý lộc gặp tổn hại, làm tang thê khắc tử, bãi chức sinh tai; lại gặp lưu niên cùng đảng với nó, tất dẫn đến thân vong thảm ác. Như có trí tuệ cao kiến, biết cơ tiến thoái tồn vong mà bảo trong thân, không gặp sai trái, bản thân cũng gặp bệnh hiểm nghèo mà chết.
Lại có trong trụ chỗ chuyên dụng thần không có khí Quan Sát, duy chỉ có Thiên Chính Tài vượng, Tài thần nắm quyền, kín đáo hưng thịnh, tích tài tụ phú, nhưng thiếu quý mà thôi. Lại xem hành vận như thế nào? Như gặp đất Quan Lộc vượng, phú quý song toàn; giả như có bất hạnh, Tài thần thoát cục, Dương Nhận tương phùng, lại gặp lưu niên xung hợp Dương Nhận, Tài thần thương tận, nguyên mệnh suy tuyệt, Dương Nhận sinh họa, tất là bại vong vậy.
Sinh Tử thì lấy cách cục mà luận:
Như Ấn thụ thấy Tài, hành Tài vận, hựu kiêm tử tuyệt, tất phải nhập hoàng tuyền, trụ có Tỉ kiên, để hầu có giải.
Chính Quan thấy Sát và Thương quan, hình xung, phá hại, hợp cùng tuế vận tất chết.
Chính Tài, Thiên Tài thấy Tỉ kiên phân đoạt, Dương Nhận kiếp tài, tuế vận xung hợp, tất chết.
Cách Thương quan, Tài vượng thân nhược, thấy nhiều Quan Sát, hỗn tạp xung Nhận, tuế vận lại thấy tất chết, có chế thì cũng thương tàn.
Củng Lộc, Củng Quý, điền thực, lại thấy Quan Sát, Kiếp Vong, Xung Nhận, tuế vận cùng thấy tất phải chết.
Nhật Lộc quy thời, hình xung phá hại, thấy Thất Sát, Quan tinh, Không Vong, xung Nhận, tất phải chết.
Sát Quan đại kị cùng hợp với tuế vận, tất chết.
Hợ cùng nhiều cách, kị Sát cùng điền thực, tuế vận cùng lâm, tất chết.
Hội nhiều hung thần, ác sát, câu giảo, nguyên thần, vong thần, kiếp sát, điếu khách, mộ bệnh, tử cung chư sát, thì thập tử nhất sinh.
Tài Quan quá nhiều, thân nhược; gốc phạm Thất Sát, thân khinh. Như nhật can Bính Đinh, năm tháng giờ có Canh Tân lại thêm vận Dậu, hoặc năm Canh Tân, tất chết; Nhật can Giáp Ất, tháng giờ Canh Tân xen tạp. Tuế vận thấy Canh Tân, tất chết. Nếu có cứu, thì cát; không có cứu, định hung.
Thần Sát ngũ hành, kim nhiều yểu chiết; thủy thịnh phiêu lưu; mộc vượng thì yểu; thổ đa si ngốc; hỏa nhiều ngu ngoan; thái quá, bất cập, đều lấy chỗ này luận.
Một là không thể câu nệ, hai là cần phải không ngại, cầu kỳ sinh tử, quyết định không có sai.
Về phần ngũ hành sinh tử như ngày Nhâm sinh ở tháng hai, hành trung vận, tất chết; sinh ở tháng bảy, hành Mão vận, tất chết. Chính là gặp sinh sợ tử, đã tử sợ sinh, tạo hóa cùng với nhân sự là một vậy, cần phải hợp lại mà xem.
(Nguồn: sưu tầm từ diễn đàn Huyền Không Lý Số)
Lê Công
Chia sẻ bài viết:
LÊ CÔNG
0919.168.366
PHÚC THÀNH
0369.168.366
Một số cách an sao vòng Trường Sinh trong tử vi
TÍNH CÁCH, MẪU NGƯỜI, TRONG LÁ SỐ TỬ VI
7 nguyên tắc cơ bản sau cần phải xem kỹ trước khi bình giải một lá số Tử Vi
THẾ NÀO LÀ TUẾ PHÁ & NGŨ HOÀNG ĐẠI SÁT
BÍ QUYẾT SONG SƠN NGŨ HÀNH VÀ THẬP NHỊ THẦN ĐẠI PHÁP (TIÊU SA NẠP THỦY THEO THỦY PHÁP TRƯỜNG SINH)
Ý nghĩa của việc thờ bàn thờ Ông Địa
“BẢN GỐC” CỦA THƯỚC LỖ-BAN DÀNH CHO CÁC BẠN THẬT SỰ HAM MÊ PHONG THỦY !!!
LÊ LƯƠNG CÔNG
Trụ sở: Số 12, Trực Cát , Vĩnh Niệm, Lê Chân, Hải Phòng
Tel: 0919.168.366 - Hotline: 0919.168.366 - Email: nhadatcongminh@gmail.com
Copyright © 2019 https://leluongcong.com/