Tứ trụ _ Bát tự hà lạc
08/09/2020 - 5:27 PMLê Công 909 Lượt xem

xem lại phần trên >>>

12, Dị ứng da:

A, Nhật can Mậu Kỷ, trong trụ hỏa nhiều hỏa vượng, thủy nhiều hoặc không có thủy;

B, Bất luận Nhật can như thế nào, sinh ở tháng Tị Ngọ Mùi, trong trụ nhiều hỏa, hoặc là loại Mùi Tuất nhiều.

13, Nhân tố khiến cho người mập béo:

A, Thực thần có lực hoặc Thực thần là hỷ dụng (có ăn có hát, khẩu vị tốt, không kén ăn);

B, Thực thần ám tàng;

C, Thương Thực sinh Tài;

D, Chính Ấn có lực;

E, Nhật can mang hợp;

F, Can ngày Quý, thân cường;

G, Tứ trụ nạp âm nhiều thủy, tứ trụ nạp âm nhiều hỏa (có 2 chữ thì mới tính, đa số chủ cao to khỏe mạnh).

14, Nhân tố khiến cho người gầy:

A, Thiên Ấn có lực;

B, Thực thần gặp Kiêu;

C, Tỉ kiên kiện vượng (Thiếu Thực Thương);

D, Kiếp tài kiện vượng (Thiếu Thực Thương);

E, Thất Sát kiện vượng;

F, Quan Sát hỗn tạp mà thân nhược;

G, Tứ trụ nạp âm thổ nhiều, tứ trụ nạp âm kim nhiều (có 2 chữ thì mới tính, đa số là chủ gầy nhỏ);

H, Chi có hai chữ Tý Mùi (Tý Mùi tương xuyên thì tỳ vị không tốt hoặc có bệnh).

15, Mệnh cục thân nhược gặp Kiêu thần trọng kiến, phần đa gặp bệnh tật thương tổn lao phổi.

16, Kiêu thần đoạt Thực, đa số sinh tật bệnh đường tiêu hóa, mất ăn hoặc thiếu ăn.

17, Phụ nữ bệnh về sinh sản:

A, Nam mệnh chi ngày là Thất Sát, gặp Kiêu thần, vợ đa số ít sinh sản, kinh nguyệt không điều hòa.

B, Nữ mệnh gặp Kiêu thần nhiều, người thường là khó sinh sản.

C, Nữ mệnh có can năm là Thương quan, giờ gặp Dương Nhận hình xung, tuế vận gặp Kiêu thần Dương Nhận, là định có họa về sinh sản.

D, Nữ mệnh có ngày giờ phạm Câu Giảo có họa về sinh sản.

E, Nữ mệnh gặp ngày giờ có Mão Dậu xung, là sẩy thai khắc con, bệnh máu trong bụng kích thích.

F, Nữ mệnh có giờ lâm Hoa Cái gặp Không Vong, cả đời không sinh sản.

18, Dương Nhận thấy nhiều ba đến bốn, tất có bệnh tật tai điếc mắt mù.

19, Thương quan thấy nhiều, đề eo lưng sươn đùi thương tàn.

20, Nên sinh có Hổ, sợ nhập nham thạch, hại Sói Hổ, tuế hình đủ bệnh. Trụ có chữ Canh, lại có hai chữ Dần Mão, phòng thú cắn thương, lại phòng chân có bệnh hoặc thụ thương.

21, Tước gặp Thiên Hậu, cánh chim nửa đường khó yên. Chu Tước là Bính, Thiên Hậu là Nhâm, trụ có hai chữ Bính Nhâm, phòng anh em chị em có thương tàn chết yểu, Bính là can năm càng ứng nghiệm.

22, Chân què lưng gù, chỉ vì Sát thần gặp Khúc cước. Chủ có tàn tật ở thân, Sát tức là Thất Sát. Trong trụ gặp Tị, Hợi, Dần, Ất cuối cùng là một nét bút phải nghiêng, gọi là “Khúc cước sát”, Khúc cước sát nhiều, cũng chủ khó tránh thương tàn.

23, Ngày giờ có Quan Sát tạp loạn, là tật bệnh cùng đến.

24, Trong tứ trụ có thủy nhược, kim giòn, hỏa vượng, mộc khô, thổ cháy, là tiêu chí trọng yếu mắc bệnh đường tiết niệu.

(Ba) Tin tức tử vong

1, Ấn thụ thấy Tài hành Tài vận lại kiêm tử tuyệt, tất phải chết, như trụ có Tỉ kiên, thì có thể giải cứu.

2, Chính Quan thấy Sát cùng Thương quan, hình xung phá hại, tuế vận cùng đến tất chết.

3, Chính Tài Thiên Tài thấy Tỉ kiên phân đoạt, Kiếp tài Dương Nhận lại thấy tuế vận xung hợp, tất chết.

4, Cách Thương quan, Tài vượng thân nhược, Quan Sát thấy nhiều, tuế vận lại thấy tất phải chết, còn sống thì thương tàn.

5, Củng lộc Củng quý, lại thấy xung Quan tinh, thấy nhiều ở tuế vận là chết.

6, Nhật lộc quy thời, hình xung phá hại, thấy Thất Sát, Quan Tinh, Không Vong, xung Nhận tất phải chết.

7, Đại kị Sát Quan, tuế vận cùng đến tất chết.

8, Còn nhiều cách khác, cùng kị Sát và Điền thực, tuế vận cùng đến tất chết.

9, Hội nhiều hung thần, Ác sát, Câu Giảo, Không Vong, Điếu khách, Mộ khố, Bệnh, Tử, Quan Sát, chín phần chết một phần sống.

10, Quan tinh Thái tuế, Tài đa thân nhược, vốn phạm Thất Sát, thân khinh có cứu thì cát, không có cứu thì hung.

11, Ngày Giáp tháng Hợi, thấy Ly thọ ngắn. (Nam phương)

12, Lục Giáp tọa Thân, được 1thấy hai Tý, vận đến Bắc phương, đề phòng chết yểu.

13, Giáp Ất gặp kim cường, hồn quy hướng Tây Đoài.

14, Thiên can hai Bính, địa chi đủ Dần, lại hành sinh Ấn, họa đến liền chết.

15, Bính hỏa tháng Thân, vô căn theo Sát, có căn Nam vượng, thoát căn thọ ngắn.

16, Dương hỏa vô căn, đất thủy tất kị, âm hỏa vô căn, đất thủy có cứu.

17, Cấn sinh Bính mà gặp Dậu chết (Cấn: hướng Đông Bắc, Kê: là Dậu)

18, Bính lâm vị Thân, gặp dương thủy khó mà sống thọ.

19, Hết thọ, vì Đinh gặp Mão mộc gặp Kỷ thổ, là vì Kiêu gặp Thực.

20, Kỷ sinh Dậu mà gặp Cấn thì chết. (Đông Bắc)

21, Kỷ nhập Hợi cung, thấy âm mộc cuối cùng là tổn thọ.

22, Canh kim vô căn, Dần cung hỏa cục, Nam phương có quý, đề phòng thọ ngắn.

23, Canh kim gặp hỏa vượng, khí tán Nam Ly.

24, Hoạt mộc thiết kị chôn căn.

Chú giải: Dần Mão Mùi là căn Hoạt mộc, như gặp Thân Dậu Sửu, Thân xung Dần, Dậu xung Mão, Sửu xung Mùi (trong Sửu có kim khắc mộc trong Mùi), thì mộc ở trong địa chi gốc bị nhổ mất, trở thành Tử mộc vô căn vậy.

25, Cướp mộc tuyệt khí ở Bính Đinh. Nhật can Giáp Ất, sinh mùa hạ, trùng trùng thấy hỏa hoặc thành hỏa cục, mộc đến đất hỏa, tan thành mây khói, “Mộc hóa thành tro”, chủ là yểu mệnh, trụ nhật chủ có kim khắc càng ứng nghiệm.

26, Ngũ hành sinh tử, xem bình việc người. Gặp sinh sợ tử, đã tử sợ sinh; chỗ sinh gặp vượng, xứ diệt thì tử; chỗ sinh gặp tử, chỗ thoát tất vượng.

27, Vận Thương quan nếu thấy hình xung, mộng nhập vào cõi u minh. Trong trụ gặp vận Thương quan xung hình, chủ họa không rõ, tất phải tử vong.

28, Sinh địa gặp nhau, thanh niên mất lộc. Kiếp Ấn trùng trùng mà hành đất trường sinh, chủ tử.

29, Ngày gặp Quan Quỷ thấy hình trọng, ác tử là rất rõ ràng.

30, Dương Nhận cùng Sát Thương hình nhau, tất chủ đến pháp trường.

31, Thân suy, chi ngày tọa Thất Sát, vận Sát chết vì hình ngục.

32, Quyền Nhận lại hành Quyền Nhận, giải phẫu mà chết.

33, Ngày gặp Nhận Sát mà hình xung, vợ tất vì sinh sản mà chết.

34, Đào Hoa hội Lộc chết vì tửu sắc, hung Sát hợp năm đề phòng đao chém chết.

35, Hàm trì tọa vượng mang Nhận, vì sắc vong thân.

36, Quý nhân trên đầu mang Nhận kiếm, đa số là chết hung.

37, Ngày Mậu tháng Dần, thấy Thân Dậu, là thập tử nhất sinh.

38, Canh Tân hướng phương Thân Dậu, chết do cướp binh quyền. Trụ có 4 chữ Canh, Tân, Thân, Dậu, có họa đổ máu, họa tổn thương tứ chi thân thể tàn tật, chém nhau đổ máu, ứng chỗ này, là trong trụ có hỏa nhiều hoặc nạp âm hỏa nhiều càng ứng nghiệm.

39, Khi sinh tứ trụ có Tài tinh, gặp lúc Dương Nhận định là khắc hình, tuế vận thường gặp vợ cắt đứt nhớ thương, hàng năm thê cung thường thấy tổn hại. Tuế vận hành vận đất Tài tinh tử mộ tuyệt, ở tuế vận này là hại vợ, hoặc ly hôn, hoặc tang vong.

40, Thân nhược, Tài sinh Sát vượng khắc thân, lại hành Tài vận tất chết.

41, Thương quan nhập mộ, âm sinh dương tử.

42, Tài gặp Kiếp hết tận, Tài trọng phá Ấn, Kiếp trọng thấy Tài, đều là vận chết.

43, Thủy thịnh mộc phiêu, cuối cùng thành quỷ bên ngoài, chết không có quan tài.

44, Thực thần gặp Kiêu, chết trong lao ngục.

45, Tòng Tài tòng Sát, vận chợt vứt căn, không chịu tòng khí, là mệnh quy tiên.

46, Thương quan Dương Nhận, thiết kị cùng thấy nhiều, nếu như đầy đủ, quyết chết do đổ máu.

47, Dương Nhận xuyên đảo, tất làm quỷ không đầu.

48, Bốn sao Nhận nặng, chết ở dưới Tài.

49, Khúc trực Nhân Thọ, sợ nhất Bạch Đế (mộc sợ kim).

50, Viêm thượng kị Thổ, thủy xung thì chết.

51, Tòng cách kim cục, phải cần hỏa luyện, Bính Đinh nhiều Ngọ, gặp mộ thì chết.

52, Chỗ kị Nhuận Hạ, là hình xung tử tuyệt, mộc hại đê ngạn, phương Đông là chết.

53, Giá Sắc cách, một mộc là tốt, mộc nhiều thổ hư, lại hành vận Đông phương mộc thì chết.

54, Kim bạch thủy thanh, thiết kị sinh mùa Hạ, hỏa hại thổ chế, xin nhớ lệnh tháng.

55, Mộc hỏa cùng sáng, kim thủy phá hại, vận hành Tây Bắc, là lúc chết.

(Bốn) Phép xem vị trí vết sẹo trên thân thể

Mệnh lý đối với phép xem vết sẹo, chính là chỉ vì các loại tai họa, thủ thuật giải phẫu, sưng mủ lở loét ở trên thân thể mà lưu lại vết sẹo.

Thông thường trong tứ trụ gặp:

1, Thiên can người có Quan Sát hoặc người có mộc khắc thổ, nửa phần trên thân thể dễ dàng lưu lại vết sẹo;

2, Người có địa chi Quan Sát hoặc có Mộc khắc thổ, nửa dưới thân thể dễ dàng lưu lại vết sẹo;

Cụ thể là nói:

Một, Can năm:

1, Can giờ khắc can năm, vết sẹo ở bên phải trên thân thể;

2, Can ngày khắc can năm, vết sẹo ở chính giữa trên thân thể lệch về vị trí bên phải;

3, Can tháng khắc can năm, vết sẹo ở trên vị trí bên trái thân thể;

Hai, Can tháng:

1, Can năm khắc can tháng, vị trí vết sẹo ở bên phía trái thân thể hiện ra rất rõ;

2, Can ngày khắc can tháng, vết sẹo ở trên vị trí bên phải thân thể rất rõ ràng;

3, Can giờ khắc can tháng, vị trí vết sẹo ở bên phía trái thân thể hiện ra rất rõ;

Ba, Can ngày:

1, Can giờ khắc can ngày, vị trí vết sẹo ở giữa thân thể thiên về vị trí bên phải;

2, Can năm khắc can ngày, vị trí vết sẹo ở phía bên trái thân thể;

3, Can tháng khắc can ngày, vị trí vết sẹo ở chính giữa trên thân thể lệch về bên trái;

Bốn, Can giờ:

1, Can tháng khắc can giờ, vị trí vết sẹo ở chính giữa thân thể lệch về bên trái;

2, Can năm khắc can giờ, vị trí vết sẹo ở bên trái thân thể là rất rõ;

3, Can ngày khắc can giờ, vị trí vết sẹo ở bên phải thân thể rất rõ.

Cụ thể lúc vận dụng, tất cần xem thêm hạn vận.

KHẨU QUYẾT XEM MỆNH

Xem mệnh nói chung, trước tiên xem Chi tháng có hay không có Tài Quan, mới xem cái khác, Nguyệt lệnh là mệnh vậy. Tháng lấy chi, năm lấy Can, Ngày lấy thiên can, lưu niên thái tuế lấy thiên can, đại vận lấy chi, năm là gốc, ngày là chủ. Như tháng có Chính Quan cùng Thiên Quan, mà giờ lại nhập cách khác, chỉ lấy trong tháng mà thủ cách, không dùng cách khác. Như nguyệt lệnh hoàn toàn không có thể dụng, mới xem cách khác.

《 Cổ ca 》nói:

“Tam cung đới cách hỗn nan tường,

Bất hiểu bằng thùy thị quý phương.

Nhất nhậm tam cung giai đới cách,

Trừ phi chỉ đắc dụng đề cương”

Tạm dịch:

“ Ba cung mang cách tạp khó tìm,

Không hiểu dựa ai là phương quý.

Cho dù ba cung đều mang cách,

Loại ra chỉ được dụng đề cương”

(Đề cương là Nguyệt lệnh, là Chi tháng). Là vậy.

Nguyệt lệnh dụng địa chi, giả như có Quan tinh, trên dưới cần phải có can chi thấu ra mới tốt; hoặc can thấu ra, trong chi không thấu, cơ bản chỉ là thông minh tuấn tú. Kỵ năm cùng giờ xung nhau, còn chi tháng chi ngày tự xung thì không ngại, đại vận cùng Tuế quân đến xung chi tháng thì gặp họa.

Phàm Chính Quan có một vị, chính là người quân tử, là quý nhân, trung hậu thuần túy, cương trực liêm minh; năm và giờ có Ấn lại càng tốt, nhiều thì trái lại chủ thành bại. Bốn vị trí đều thuần Quan, làm quan hư danh. Phàm Thất Sát một vị, thông minh linh lợi, hai vị, ba vị thì trước trong sau đục. Tứ trụ thuần Sát, có chế là quý, không có chế thì bần.

Phàm Tài có một vị, việc phải được thời, phú quý thành gia, tính tình nóng vội; hai vị, tính khí giảm nửa; ba vị, bốn vị, hao khí mà thân suy. Nếu thân quá vượng thì có thể thành lập, suy nhược thì nhận sự lao khổ.

Phàm Ấn, không luận một vị, hai vị, bốn vị cũng tốt, trong cách không nên thấy Tài phá Ấn.

Thông thường hành vận tốt, nhật can gây tổn thương can đầu lưu niên, tuế quân thì họa nhẹ. Hành vận không tốt, nhật can tổn thương can đầu Tuế quân thì họa nặng, nếu đã qua phát thì chết.

Thìn Tuất Sửu Mùi, tất cả có ba phần dư khí. Ví dụ như hành Ngọ vận tới Mùi có ba phần hỏa khí, hành Tý tới Sửu có ba phần thủy khí, không thể hoàn toàn lấy thổ mà luận.

Phàm Dương Nhận cách, Tuế Vận sợ nhất xung hợp. Can Thái Tuế hợp can ngày giờ, gọi là Hối khí Sát; Can chi ngày giờ cùng can chi lưu niên giống nhau, là Chuyển chỉ Sát. Như loại ngày Canh Thân thấy Thái tuế là Canh Thân hoặc là Canh Dần, nhẹ thì chuyển đi xa, nặng thì phá gia bại sản.

Phàm năm, tháng, ngày có cát thần, yêu cầu giờ dẫn quy về xứ sinh vượng; có hung thần, yêu cầu giờ dẫn quy về nơi chế phục. Nếu ở trên trụ giờ mang theo cát thần hoặc hung thần, cũng cần năm, tháng, ngày ở trên có cát thần sinh cho, hung thì chế. Trụ tháng có dụng thần thì được lực của tổ tông, trụ giờ có dụng thần thì được lực của con cháu, trái lại chỗ này thì không được lực.

Phàm xem mệnh, lấy can ngày dụng là Thiên nguyên, vậy can là Lộc; chi ngày, chi tháng dụng là Địa nguyên, vậy chi là mệnh. Ví dụ ngày Nhâm Quý, tháng Kỷ Mùi, ở chi thấu ra Tài Quan là vậy.

Luận Tài Quan gốc có gốc không có, gốc địa chi có Tài Quan, thiên can không lộ ra thì không xét; nếu địa chi không có Tài Quan, nhưng thiên can thấu ra, dù là hành vận tốt, cũng không được việc.

Xem Lưu niên Tuế quân, chỉ sử dụng Thiên nguyên. Như hành vận dù có xem trọng ở địa chi, cũng phải xem thêm thiên nguyên. Trong trụ mệnh hoặc có Quan tinh, hoặc có Thiên quan, có chế phục thái quá, mà vận thấy ở Quan Sát, thì có thể phát; Chi vận không có Tài, mà Can vận thấy Tài, cũng có thể là phúc vận; chi không có Sát mà can vận thấy Sát, cũng có thể là họa.

Nhân mệnh nên lấy tháng sinh là gốc vận, rất sợ đại vận cùng Tuế quân đến xung là gặp họa. Nên dùng gốc Lộc là sinh Quan tinh, rất sợ xung phá. Như ngày sinh là Đinh, lấy Nhâm là Quan, mà sinh tháng Hợi, trong Hợi có Nhâm là lộc của Đinh, nếu năm và giờ có chữ Kỷ thì xung phá gốc Lộc.

Nên lấy gốc Mã là sinh Tài tinh, rất sợ bị Kiếp (cướp) đoạt, như người sinh ngày Canh, lấy Giáp Ất mộc là Tài, mà sinh tháng Dần Mão, trong Dần có Giáp mộc là Thiên Tài, trong Mão có Ất mộc là Chính Tài, nếu năm giờ có chữ Tân, thì có họa tranh đoạt. Tuế vận cũng luận giống vậy.

Phàm ở trên can năm ngày có Quan tinh, phúc khí rất dày; ngày có Thất Sát, thì cả đời không thể loại trừ.

Quan tinh là Lộc, Tài tinh là Mã. Hành Quan tinh thì phát quan, hành Tài tinh thì phát tài, cả hai không thể thiếu một, tất cả đều có chỗ dùng.

Trên năm tháng có Tài Quan, nhất định sinh ra ở nhà phú quý, có căn cơ tổ phụ, thiếu niên hành vào vận Quan Lộc, phần đa nhận chức ở thiếu niên, sớm phát công danh; năm tháng không có Tài Quan, mà ngày giờ có, thì bản thân tự lập.

Nhân mệnh lấy Tài Quan làm gốc, trong trụ chỉ có một, cũng có thể phát phúc;

Nếu tứ trụ gốc không có Quan tinh, không nhập cách khác, can chi năm, tháng, ngày, giờ có Tài nhiều, lại hành vận Tài vượng, cũng có thể thành tựu công danh. Lấy Tài vượng tự có thể sinh Quan, cần thân vượng mới có thể được. Năm tháng không có Tài phú, thiếu niên lại hành vận không tốt, phần đa là xuất thân nơi thấp hèn, phá tổ mà còn tổn hại cha. Phúc không thành.

Phàm xem mệnh, có Quan Sát hỗn tạp, Thương quan lại là hợp thần, nam mệnh phạm thì đam mê tửu sắc; nữ mệnh phạm thì không có người làm mai mối để lấy chồng.

Phàm xem mệnh, chuyên lấy Nhật can làm chủ, lấy chỗ Đề cương vật sử dụng làm sinh mệnh. Thí dụ Nguyệt lệnh lấy kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là dụng, nhưng có phân biệt, lấy tiết khí trước sau, khinh hay trọng, ít hay nhiều, thành cục hay bị xung phá, càng phải tinh tế khảo cứu. Viết Quan, viết Ấn, viết Tài, viết Sát, viết Thực, viết Thương, lấy 6 phép này làm tiêu chí.

Gặp Quan xem Tài, gặp Sát xem Ấn, gặp Ấn xem Quan. Cả bốn vị này lấy không nên thiên lệch, sinh khắc chế hóa là trên hết; gặp phá hại hưu hồi, là thấp; có sinh có khử là phúc, có trợ có cướp là họa. Cũng có hợp chi năm, ngày, giờ thành cách cục, nhưng đều lấy Nguyệt lệnh làm dụng. Ví dụ như lệnh tháng dụng kim chỉ dụng kim, dụng hỏa chỉ dụng hỏa, bên trong 18 cách lấy 6 cách làm trọng.

Dụng tương sinh để định cách, hợp cục, nhưng dụng dưới năm, ngày, giờ để suy khinh trọng, nông sâu. Như dụng Quan dụng Ấn không sợ Sát, là Sát Ấn cục, thân Ấn cục vẫn thủ làm thượng cục; Gặp Ấn xem Sát, nhưng có Quan Sát ở mệnh, hành đất Quan Sát, cũng lấy quý luận.

Trong trụ Nguyệt lệnh thông quan gặp Tài, Tài vượng sinh Quan chính là phú quý. Trong trụ thấy Tài, phải vào vận Tài vượng mới phát phúc. Nhưng thấy một Sát, thì lấy Sát làm trọng không thể dụng Tài; nếu hành vận Tài vượng chính là Tài sinh đảng Sát, thì là mệnh bần tiện.

Phàm cách lấy Sát làm trọng.

Phàm mệnh, trước tiên xem Can thần có hay không có khắc chế, Chi thần có hay không có hình xung, nạp âm can chi có hay không có khắc chiến, hàng phục. Như Giáp lấy Dần là lộc, mà ở trên Dần có can gì? Giáp lấy Tân là Quan, mà Tân được gì? Can không xâm phạm, thì chính là tôn trọng trời. Chi không phạm Can, thì chính là cúi chào đất; Ngũ hành không cướp trộm, thì chính là thuận theo người; Tứ Mạnh không tương hại, thì chính là Mã có thể phi nhanh. Nếu can xâm phạm chi, là ngũ hành cướp trộm.

Lại cần phân biệt Chủ Bản có hay không có khí, hữu dụng hay vô dụng, có cứu hay không có cứu, thành cách hay không thành cách?

Can chi thì phức tạp, ngũ hành biến hóa, tạo hóa ở trong đó vậy!

Lý Thuần Phong nói: Ngũ hành sinh vượng, xem phúc khí đến; Ngũ hành tử tuyệt, nhờ cát thần cứu trợ. Ngũ hành đắc địa, nạp âm tương sinh, cát thần không có trợ giúp thì cũng vinh; ngũ hành vô khí, nạp âm gây trở ngại nhau, thì dù có cát thần cũng vô dụng.

Phàm mệnh, Thiên nguyên hỷ Địa nguyên có lộc:

Như Giáp Kỷ hỷ tứ quý, Ất Canh hỷ Thân Dậu, Bính Tân hỷ Hợi Tý, Đinh Nhâm hỷ Dần Mão, Mậu Quý hỷ Tị Ngọ.

Địa nguyên hỷ Thiên nguyên có hợp:

Như Tý Sửu hỷ Mậu, Dần hỉ Kỷ, Mão Thìn hỷ Canh, Tị hỉ Tân Quý, Ngọ hỷ Giáp Nhâm, Thân hỷ Ất, Dậu Tuất hỷ Bính, Hợi hỷ Đinh.

Thiên nguyên, Địa nguyên đều có, phúc khí cả đời cao lớn; còn tất cả đều không có, thì danh lợi không thành.

Phá hư Thiên nguyên thì trước 39 tuổi danh lợi khó phát; phá hư Địa nguyên thì sau 40 tuổi phúc không bằng trước.

Nếu Thiên nguyên tọa lộc tú khí, ví dụ như Quý được Tý, Giáp được Dần, thì không quý cũng phú.

Địa nguyên kỵ Thiên nguyên tương khắc:

Như Tý Sửu sợ Kỷ, Dần sợ Canh, Mão Thìn sợ Tân, Tị sợ Giáp Nhâm, Ngọ Mùi sợ Ất Quý, Thân sợ Bính, Dậu Tuất sợ Đinh, Hợi sợ Mậu.

Lại xem hỷ kị như thế nào, không thể chấp nhất mà luận.

Phàm mệnh, can chi thủ cùng nạp âm giống nhau:

Nhâm Tý Nhâm Ngọ là chân mộc, Kỷ Dậu Kỷ Mão là chân thổ, Bính Tý Bính Ngọ là chân thủy, Mậu Tý Mậu Ngọ là chân hỏa, Ất Sửu Ất Mùi Canh Thìn Canh Tuất là chân kim.

Như ngày Ất Dậu giờ Canh Thìn là kim tinh, ngày Đinh Tị giờ Bính Ngọ là hỏa tinh, ngày Quý Hợi giờ Nhâm Tý là thủy tinh, ngày Kỷ Sửu giờ Mậu Thìn là thổ tinh, ngày Giáp Dần giờ Tân Mão là mộc tinh, nếu gặp ở trên đều chủ phú quý.

Như người mệnh hỏa có ngày Bính giờ Tân, ngày Tân giờ Bính; mệnh mộc có ngày Giáp giờ Kỷ, ngày Kỷ giờ Giáp; mệnh thổ cp1 ngày Mậu giờ Quý, ngày Quý giờ Mậu; mệnh thủy có ngày Nhâm giờ Đinh, ngày Đinh giờ Nhâm; mệnh kim có ngày Canh giờ Ất, ngày Ất giờ Canh, dù là ngũ hành chân quý, phạm nặng thì giảm phúc.

Phàm mệnh, có ngũ hành giao hỗ chân khí:

Như mệnh Tân Hợi kim được Đinh Tị thổ, có Đinh Nhâm qua lại hợp chân mộc, có Bính Tân qua lại hợp chân thủy;

Mệnh Đinh Tị thổ được Quý Hợi thủy, có Mậu Quý qua lại hợp chân hỏa, có Đinh Nhâm hợp qua lại chân mộc;

Như tạo: Mậu Tuất, Quý Hợi, Đinh Tị, Tân Hợi, đầy đủ giao hỗ chân khí, là mệnh của Tể tướng vậy.

Mậu Ngọ hỏa được Nhâm Tý mộc, trong có Đinh Nhâm là chân mộc, Mậu Quý là chân hỏa.

Bính Thân hỏa được Ất Dậu thủy, trong có Bính Tân là chân thủy, Ất Canh là chân kim.

Canh Dần được Kỷ Mão thổ, trong có Giáp Kỷ là chân thổ, Ất Canh là chân kim.

Như Canh Dần, Kỷ Mão, là đầy đủ giao hỗ, chính là mệnh lưỡng phủ vậy.

Phàm mệnh, trước tiên luận hóa khí.

Kiểm tra lại 《 Chương Ngũ vận 》, lấy Giáp Bính Mậu Canh Nhâm hợp ngũ âm can gọi là thái quá, Ất Đinh Kỷ Tân Quý hợp ngũ dương can gọi là bất cập. Giữa thái quá và bất cập, là có quyền tồn tại ở chỗ này.

Kiểm tra 《 Sách Thiên nguyên biến hóa 》, lại phân ra ngày và đêm. Như:

Người Lục Giáp, sinh ban ngày là mộc, sinh ban đêm là hóa thổ, cho nên người có Lục Mậu được Giáp sinh ban ngày là Quỷ, sinh ban đêm là dụng Quan;

Người Lục Ất sinh ban ngày là dụng kim, sinh ban đêm là dụng mộc, cho nên người Lục Kỷ sinh ban ngày là Quan, sinh ban đêm là Quỷ.

Riêng người có Lục Kỷ, Lục Canh là bất biến, là lấy can ngũ dương sinh ban ngày là bản thể, sinh ban đêm là lấy hóa xem; can ngũ âm sinh ban đêm là bản thể, sinh ban ngày là lấy hóa xem.

Loại lục dương, mệnh nam phạm Lộc Quỷ Đảo Thực, cần thủ sinh ban đêm, thì phản hung thành cát. Hô Quỷ thành Quan, Đảo Thực thành Hỷ thần, lại lấy sinh ban ngày là thuận;

Loại lục âm, mệnh nam phạm Lộc Quỷ Đảo Thực, cần thủ sinh ban ngày, thì phản hung thành cát. Còn lại giống như trước, lại lấy sinh ban đêm là thuận.

Mệnh nữ thì ngược lại chỗ này.

Chỗ này là khí tượng ngày và đêm, là phối hợp âm dương, cương nhu, thể dụng vậy.

Phàm mệnh, ngũ hành ở dưới sinh trên viết là Trợ khí (giúp khí), chủ cả đời tự nhiên hưởng phúc. Trên sinh dưới viết là Đạo khí (cướp khí), chủ cả đời cung phúc cho cho người. Trên khắc dưới viết là Thuận, chủ có uy thế mà quản thúc con người; dưới khắc trên viết là Nghịch, chủ phần nhiều trì trệ và khó phát, tử tuyệt thì càng nhanh, sinh vượng thì chậm hơn.

Tứ trụ nạp âm nhiều Quỷ, Chủ Bản nắm thời, gọi là ngày Quan tinh thừa vượng; nạp âm Tài nhiều, Chủ Bản vô khí, gọi là Tài đa hại thân.

Phàm mệnh, ngũ hành quý ở âm dương bằng nhau, như: loại hai kim thấy hai mộc, hoặc hai hỏa hai thổ hai thủy, từng loại thành tượng mới cát;

Như thái quá, bất cập, như loại ba thủy một mộc, một thủy ba mộc, đều không là phúc. Như người mệnh kim thấy ba kim một mộc, kim khắc mộc là Tài, ba kim tranh một mộc, thì phúc bị phân đoạt, phần đa chủ tài vật không thành. Nếu một kim ba hỏa, hỏa nhiều kim ít, bị nung thái quá, cả đời chủ không nhàn.

Lại như người Giáp, gặp ba Nhâm ba Kỷ, nói là ba phối ba đoạt, chủ không cát. Nếu gặp hai Kỷ, hai Canh, gọi là trọng ngẫu trọng thương, nếu là ba thì càng hung, không bần thì yểu. Còn lại theo đó mà suy.

Phàm xem mệnh, có Thương quan kiến Quan mà chết sớm, Thất Sát kiến Tài thì yểu vong, Tài gặp Kiếp phải chết, trọng Tài phá Ấn là hung. Thủy thịnh mộc lưu, cuối cùng là quỷ; Thực thần phùng Kiêu, chết trong lao ngục. Kiếp trọng thấy Tài là chết, Sát vượng thì căn dừng. Vong Thần Thất Sát xung hình, không phải kẻ xấu thì cũng chết. Dây trói buộc Thương quan, Dương Nhận đều trọng, dù thây thể còn nhưng chết bởi cảnh đổ máu. Tài tinh thấy Nhận, thì tài tán người chết. Sinh vượng tử ở khố mộ, khố mộ tuyệt ở sinh vượng. Về sau hành vận tốt, không vào hung vận, vì sao lại chết đột ngột? Có hung vận đến mà cát vận chưa đến vì sao lại phát phúc? Nên nghiên cứu nguyên do Tiến khí Thoái khí, lại suy xét nghĩa chưa phát hay đã phát. Tương lai mà tiến nhanh, thành công thì đã quy tiên.

Cả đời tuế vận đều hung, thiếu niên sẽ chết sớm; cuối đời mệnh tinh đắc địa, thọ lão càng cao. Già thì sợ sinh vượng, mà ít sợ tử tuyệt; Dương Nhận phùng sinh phần đa chết dữ, Sát vượng có căn cuối cùng định là hung.

Xuân vượng hỏa nhiều, đượng nhiên Tây Bắc là quy về khố; Hạ mờ kim vượng, lợi Đông Nam đất quỷ là đất thọ.

Tứ Nhận tinh trọng, chết ở dưới Chính Tài; Một Quan ít quý, cuối cùng hướng về Dương Nhận.

Tứ trụ đều là Thương là tự chết, Kim thần nhập thủy thì gặp họa.

Dương Nhận Đảo Qua, làm quỷ không đầu; Sát tinh thay Nhận, còn nửa thân.

Chế phục trung hòa, Sát đầy cực điểm mà khí tử.

Sinh phù thái quá, Ấn quá vượng thì chết.

Thương quan nhập mộ tử, rất cần nhìn cục về sau.

Dương sinh mà âm tử, âm tử mà dương sinh.

Sát gặp tam hợp thái quá tất phải đổ ngã, trong ngũ cần nên thẩm xét tiêu tường. Cần phải nghiên cứu cẩn thận.

Phàm xem mệnh, ngũ hành thái quá hay bất cập, là nguyên nhân không thành phúc, trong đó cũng có khác nhau. Như thủy thổ không sợ tử tuyệt, vì ở giữa trời đất đều đầy thủy thổ, không phân ra bốn mùa, sao lý có Tử Tuyệt? Chỉ phân biệt khinh trọng, như ở trong thổ chỉ có một chút thủy thì khô, trong thủy nhiều tụ lại làm úng thổ thì tan rã ra, cần phải luận nhiều ít, mà phân ra khinh trọng vậy.

Kim không thổ thì không sinh, mộc không thủy thì không lớn, cho nên kim mộc muốn sinh vượng thì sợ thấy tử tuyệt. Như kim tử thì bị chìm, mộc tử thì thành tro bụi, cùng với thủy thổ khác nhau.

Hỏa tàng ở mộc giữ lại ở thổ, cho nên không muốn vượng, vượng thì đốt cháy; cũng không muốn tử, tử thì diệt, duy chỉ được cân bằng thì tốt.

Ngũ hành đều dựa vào thủy thổ, phàm mệnh mộc kim hỏa, càng cần có vậy.

còn tiếp,.......


Tin liên quan

Chia sẻ bài viết: 



Bình luận:

Hỗ trợ trực tuyến

Lê Công

0369.168.366

Nhà đất bán theo tỉnh thành
Nhà đất cho thuê theo tỉnh thành
Kinh Dịch
Tử vi
Huyền không Phi Tinh
Văn Hóa_Tín Ngưỡng
Thước lỗ Ban
Xen ngày tốt
Tứ trụ _ Bát tự hà lạc
TIN NỔI BẬT

LÊ LƯƠNG CÔNG

Trụ sở: Số 31 - Mương An Kim Hải - Kenh Dương, Le Chan, Hai Phong

Tel: 0369168366 - Hotline: 0919.168.366 - Email: nhadatcongminh@gmail.com

Copyright © 2019 https://leluongcong.com/