Đạo Học
23/08/2021 - 8:39 AMLÊ CÔNG 752 Lượt xem

TRANG TỬ NAM HOA KINH : CHƯƠNG 1 TIÊU DIÊU DU

Lão tử và Trang tử là hai triết gia làm tốn giấy mực cho đời sau nhiều nhất: mỗi nhà ít gì cũng được cả trăm người khác chú giải. Một phần là vì triết thuyết của họ rất sâu sắc, ảnh hưởng tới tư tưởng và đời sống Trung Hoa. Nhưng nguyên nhân chính là văn của họ cô động quá, hàm súc quá, có thể hiểu được nhiều cách, nhiều chỗ không ai biết chắc được họ muốn nói gì, đành phải suy đoán. Hai bộ Đạo Đức kinh và Trang tử (Nam Hoa kinh) so với hai bộ Luận ngữ và Mạnh tử về phương diện sáng sủa thực khác nhau xa quá: một bên mù mờ bao nhiêu, một bên sáng sủa bấy nhiêu.

Biển Bắc có con cá gọi là cá côn, mình dài không biết mấy ngàn dặm. Nó biến thành con chim gọi là chim bằng[61], lưng rộng không biết mấy ngàn dặm, khi tung cánh bay thì cánh nó như đám mây trên trời. Biển (Bắc) động thì nó dời về biển Nam, biển Nam là Ao trời.

Tề Hài là sách[62] ghi những chuyện quái dị. Sách đó bảo khi con chim bằng dời xuống biển Nam, nó đập nước tung tóe lên ba ngàn dặm rồi nương gió lốc cuốn lên cao chin vạn dặm. Nó xuống biển Nam vào tháng 6, lúc gió nổi lên.[63]

(Ở dưới nó là) Hơi nước bốc lên – coi tựa như những con ngựa hoang – và bụi cát, cùng hơi thở các sinh vật. (Mà ở trên nó) màu thanh thiên kia phải là bản sắc của trời không hay là vì trời xa thăm thẳm mà ta nhìn thấy như vậy? Vì từ trên cao nhìn xuống thì cũng thấy một màu đó.[64]

Nước không sâu thì không chở được thuyền lớn. Đổ một chén nước xuống một chỗ lõm ở trước sân thì thả một cọng cỏ xuống làm thuyền được; nếu thả cái chén đó xuống thì chén chạm đất, không nổi được, vì nước nông mà thuyền lớn. Lớp không khí mà không dày thì không đỡ được những cánh chim lớn. Cho nên con chim bằng phải bay lên cao chin vạn dặm để có lớp không khí dày đỡ nó ở dưới, rồi lưng nó mới đội trời xanh, không hề bị cản trở, mà bay xuống biển Nam được.

Con ve sầu và con chim cưu[65] cười con chim bằng rằng: “Chúng tao bay vù lên cây du, cây phương[66], có lúc bay không tới mà rớt xuống đất. Hà tất phải bay cao chín vạn dặm để xuống phương Nam?”

Người nào muốn tới một chỗ gần ở ngoài thành thì chỉ cần mang theo lương thực cho đủ ba bữa, mà khi về bụng hãy còn no[67]. Kẻ nào muốn đi một trăm dặm thì phải chuẩn bị lương thực để nghỉ đêm[68]; muốn đi một ngàn dặm thì phải chuẩn bị lương thực cho ba tháng. Hai con vật nhỏ kia (tức con ve sầu và con chim cưu) biết đâu lẽ đó.

Trí lực nhỏ không thể so sánh với trí lực lớn; cuộc đời ngắn không thể so sánh được với cuộc đời dài. Làm sao biết được điều ấy? Như cây nấm chỉ sống một buổi sáng thì không biết được trọn một ngày[69], con huệ cô (một loại ve sầu, sinh mùa xuân thì mùa hè chết, sinh mùa hè thì mùa thu chết), không biết được trọn một năm; đó là những loài cuộc đời ngắn ngủi. Ở miền Nam nước Sở, có một con rùa thiêng[70], mùa xuân của nó dài năm trăm năm; mùa thu dài năm trăm năm; đời thượng cổ có một cây “xuân” lớn, mà mùa xuân dài tới tám ngàn năm, mùa thu dài cũng tám ngàn năm, đó là những loài cuộc đời lâu dài. Ông Bành Tổ (chỉ sống bảy trăm năm) mà ngày nay hễ nói tới thọ, ai cũng cho ông bậc nhất, chẳng đáng buồn ư?[71]

Trong cuộc đàm thoại giữa ông Thang và ông Cách[72] cũng có một đoạn như vầy: Ở phương Bắc hoang dã có một cái biển gọi là “Ao trời”, trong biển có một con cá chiều ngang rộng mấy ngàn dặm, không biết chiều dài là bao nhiêu, gọi là cá côn; có một con chim gọi là chim bằng, lưng lớn như núi Thái Sơn, cánh như đám mây rủ ở trên trời, nó nương ngọn gió lốc, xoắn như sừng cừu, bay lên cao chín vạn dặm, vượt lên khỏi các đám mây, lưng đội trời xanh mà bay về biển Nam.

Một con chim cút ở trong cái đầm nhỏ cười nó: “Con đó bay đi đâu vậy? Tôi lên cao độ vài nhẫn[73] rồi xuống, bay liệng trong đám cỏ bồng cỏ cảo, cho bay như vậy là đủ rồi. Con đó bay đi đâu vậy kìa?”.[74]

Lớn với nhỏ khác nhau như vậy đó.

Có người tài trí đủ để làm một chức quan, có người hạnh làm gương được cho một làng, có người đức đáng làm vua mà được cả nước phục[75], nhưng dù thuộc hạng nào thì cũng đều tự đắc như con chim cút kia vậy.

Ông Vinh tử nước Tống[76] cười họ. Dù cả nước khen ông, ông cũng không mừng, cả nước chê ông, ông cũng không buồn, vì ông biết phân biệt nội và ngoại[77], vinh và nhục. Người như ông thật hiếm ở đời, nhưng ông chỉ biết tự thủ (tự giữ mình) thôi, chứ chưa tự thích nghi với vật mà thành bậc đại[78].

Ông Liệt tử[79] cưỡi gió mà bay, thật nhẹ nhàng, khoan khoái, mười lăm ngày rồi về. Có phúc lớn như ông thật hiếm ở đời, tuy khỏi phải đi, nhưng ông vẫn còn tùy thuộc một cái gì (tức đợi cho gió nổi lên).

Đến như hạng người làm chủ được cái chính đạo của trời đất, chế ngự được lục khí[80] để ngao du trong vũ trụ vô biên, thì còn tùy thuộc cái gì nữa đâu? Cho nên người ta bảo “Bậc chí nhân (có đức tuyệt cao) thì quên mình, bậc thần nhân thì không lập công, bậc thánh nhân thì không lưu danh”[81].

 còn tiếp >>>

Chú thích :

 

[61] Có sách chú giải cá côn là cá voi, chim bằng là chim phượng. Lại có sách bảo cá côn là một loại cá nhỏ và khen Trang Tử có một bút pháp độc đáo, dùng những vật nhỏ để trỏ những vật cực lớn để chỉ “sự vô thường của cái lớn và cái nhỏ”.

[62] Giản Văn Đế bảo Tề Hải là tên sách. Tư Mã Bưu bảo là tên người. Hiểu cách nào cũng được vì tên đó không có thật.

[63] Có sách giảng là: Nó xuống biển Nam, nghỉ ở đó sáu tháng.

[64] Đoạn này thật tối nghĩa, mỗi nhà giải thích mỗi khác. L.K.h. bảo Trang Tử muốn tả những vật mà chim bằng trông thấy khi nó bay lên. VPC bảo Trang Tử muốn nói: Sở dĩ chim bằng bay cao được vì có hơi nước, bụi cát, hơi thở của các sinh vật đỡ nó ở dưới, và một lớp không khí dầy ở trên và dưới. Hiểu như Vương thì đoạn này có liên lạc với đoạn sau hơn. Vì Vậy tôi theo Vương và thêm mấy chữ trong dấu ( ).

[65] Một loài bồ câu – Có Tự điển Hán Việt dịch là con tu hú.

[66] Sách in nhầm là “cây phượng”. Chữ Hán là 枋 (phương): cây phương (dùng làm thuốc nhuộm).

[67] Nghĩa là mang theo lương thực cho một ngày, sáng đi tối về.

[68] Nghĩa là mang theo lương thực cho hai ngày, mỗi dặm già nửa cây số ngày nay.

[69] Có sách giảng là một tháng.

[70] Minh linh: có sách giải thích là một loại cây.

[71] Ý nói: Người ta cho kiếp người trăm năm là ngắn, muốn được như ông Bành Tổ, nhưng tuổi thọ của Bành Tổ còn thua xa con rùa thiêng, cây xuân, giá có được như ông thì vẫn chưa thoả mãn

[72] Thang là ông vua diệt vua Kiệt mà chấm dứt nhà Hạ, mở đầu nhà Thương. Cách là một đại phu nhà Hạ, nổi tiếng là hiền. Chữ cức là gai ở đây đọc là cách. [Chữ Hán là 棘 ].

[73] Mỗi nhẫn là tám thước thời đó, mỗi thước khoảng một gang tay.

[74] Đoạn này có chép trong bộ Liệt Tử (coi bản dịch của tôi, trg. 177) nhưng hơi khác.

[75] Nguyên văn là “trưng” [trong sách in nhầm là “trung”. Trưng chữ Hán là 徴] nghĩa là chứng tỏ tài đức của mình đáng cho dân tín nhiệm, đáng được dân coi là vua.

[76] Một hiền triết nước Tống thời đó. Chương Thiên Hạ ở cuối cuốn này gọi là Tống Kiên, trong bộ Mạnh tử gọi là Tống Khanh, trong bộ Tuân tử gọi là Tống tử.

[77] Nội là chân giá trị của mình, ngoại là lời khen hay chê của người.

[78] Nguyên văn: hữu vị thụ dã,  mỗi sách giảng mỗi khác. Liou Kia hway giảng là không lập được thuyết gì làm cơ sở cho đức tự thủ

[79] Coi bộ Liệt tử của tôi – Lá Bối xuất bản.

[80] Lục khí là âm dương, gió mưa, ánh sáng và bóng tối.

[81] Vì họ ảnh hưởng tới mọi người mà không ai thấy, không ai ngờ là nhờ họ.


Tin liên quan

Chia sẻ bài viết: 



Bình luận:

Hỗ trợ trực tuyến

Lê Công

0369.168.366

Nhà đất bán theo tỉnh thành
Nhà đất cho thuê theo tỉnh thành
Kinh Dịch
Tử vi
Huyền không Phi Tinh
Văn Hóa_Tín Ngưỡng
Thước lỗ Ban
Xen ngày tốt
Đạo Học
TIN NỔI BẬT

LÊ LƯƠNG CÔNG

Trụ sở: Số 31 - Mương An Kim Hải - Kenh Dương, Le Chan, Hai Phong

Tel: 0369168366 - Hotline: 0919.168.366 - Email: nhadatcongminh@gmail.com

Copyright © 2019 https://leluongcong.com/