Thư mục Âm Phù kinh
1.- Lưu Nhất Minh, Âm Phù Kinh chú
2.- Vô Tích Hoàng Nguyên Bính, Âm Phù Kinh Chân Thuyên.
3.– Thái Công đẳng chú (17 người chú giải).
4.- Thất gia chú (7 người chú)
5.- Lý Thuyên chú.
6.- Trương Quả chú.
7.- Viên Thục Chân chú.
8.-Tiêu Chân Tể chú.
9.- Hoàng Cư Chân chú.
10.- Trầm Á Phu chú.
11.- Nhiệm Chiếu Nhất chú.
12.- Kiển Xương Thìn chú.
13.- Đỗ Quang Đình chú.
14.- Lục Điền chú.
15.- Lý Tịnh Âm Phù Cơ.
16.- Âm Phu Thái Vô Truyện.
17.- Đướng Vi Hồng, Âm Phù Chính Nghĩa.
18.- Lý Thuyên Diệu Nghĩa. (Li Sơn Mẫu truyện)
19.- Trương Quả, Âm Phù Biện Mệnh Luận,.
20.- Huyền giải tiên sinh, Âm Phù Huyền Đàm
21.- Đỗ Quang Đình, Âm Phù Kinh
22.- Cát Hồng, Âm Phù Thập Đức Kinh
23.- Viên Thục Chân, Âm Phù Kinh Sớ.
24.- Thái Huyền Tử, Âm Phù Kinh Tụng.
25.- Vô Vi Tử, Âm Phù Kinh
26.- Trương bân Khanh, Âm Phù Sớ.
– Trương Lỗ, Âm Phù Huyền Nghĩa.
28.- Phí Trường Phòng, Âm Phù Đợn Kinh.
29.- Ly Sơn Mẫu chú, Âm Phù Đơn Kinh,
30.- Âm Phù Kinh Tự.
31.-, Âm Phù Ngũ tặc nghĩa.
32.- Âm Phù Tiểu Giải.
33.- Âm Phù Đơn Kinh Giải.
Từ số 2, đến số 33 là theo Tống, Cao Tự Tôn tử trong sách Vô Tích Hoàng Nguyên Bính, Âm Phù Kinh Chân Thuyên, tr.23.
Âm Phù được Đường Quả Lão, Y Doãn, Thái Công Vọng, Chư Cát Lượng, Phạm Lãi, Quỉ Cốc Tử, Trương Lương, Lý Thuyên v. v… chú.
Cũng có người cho sách này đã được 11 người chú giải, thay vì 7 người như trên. Đó là: Thái Công, Phạm Lãi (525-455) Quỉ Cốc Tử, Chư Cát Lượng, Lý Thuần Phong (602-670 Đường), Lý Thuyên (Đời Đường Huyền Tông), Lý Hiệp, Lý Giám, Lý Duyệt, Dương Thịnh.
Ý nghĩa kinh sách đạo Lão
Âm phù kinh
Khoảng 23 quyển khác nhau.
«Thánh Nhân quan thiên chi đạo, chấp thiên chi hành, chưởng ốc Thiên Nhân ám hợp chi cơ, xử hành vi hợp hồ Thiên Đạo, bất vi tự nhiên, tắc trị quốc dưỡng sinh các đắc kỳ nghi…» (Hoàng Đế Âm Phù Kinh, tr. 332, Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, Hồ Hoài Sâm)
Sách này được Đường Quả Lão, Y Doãn, Thái Công Vọng, Chư Cát Lượng, Phạm Lãi, Quỉ Cốc Tử, Trương Lương, Lý Thuyên v. v… chú.
Cũng có người cho sách này đã được 11 người chú gỉai, thay vì 7 người như trên.
Đó là: Thái Công, Phạm Lãi (525- 455) Quỉ Cốc Tử, Chư Cát Lượng, Lý Thuần Phong (602-670 Đường), Lý Thuyên (Đời Đường Huyền Tông), Lý Hiệp, Lý Giám, Lý Duyệt, Lý Thịnh.
Đều chủ trương Quan Thiên chi đạo, chấp cơ đạt biến, dĩ cầu trường sinh, phú quốc an dân, cường binh chiến thắng. (sđd, tr.332)
Âm Phù Kinh là:
«Thánh Nhân Thể Thiên dụng Đạo chi cơ.»
«Thánh Nhân dụng tâm Thâm vi, tắc năng chiếu kiến tự nhiên chi tính; chấp cơ biến thông tắc năng khế hợp tự nhiên chi Lý.»
Chiếu chi dĩ tâm, khế chi dĩ cơ, nhi âm phù chi nghĩa tận hỉ. (332)
Thiên Địa chi thần dữ Ngô chi thần đồng vu nhất thể, cố động dữ Thần khế, tĩnh dữ Thần cụ, dữ Thái Không vi nhân, dữ tạo vật giả vi hữu, Thể Tính vô thù, thị vị Đắc Đạo
Thế là Thiên Đạo Nhân Tâm ám hợp chi lý, dục nhân năng thuận Thiên nhi động (333)
Âm Phù Kinh xưa nay chỉ có 300 chữ hay 400 chữ. (333)
Cộng thêm học thuyết Lão là Thanh Tĩnh tự nhiên, thanh tâm quả dục, pha phach thêm Dịch Truyện là thành Thuyết Thiên Đạo, Nhân sự Khế Hợp. (333)
Âm Phù kinh cho rằng Thiên Đạo và Nhân Đạo khế hợp với nhau.
Và giải Âm là Ám, Phù là Phù Hợp. (333)
Đề cao thuyết của Nho Gia là Tồn Thiên Lý, khử Nhân Dục, Tu Tâm, Thành Tính. (334)
«Vạn vật hữu hình viết Âm. Vạn Vật giai hữu Tính Mệnh viết Phù, vạn vật giai hữu Tự Nhiên chi Đạo viết Kinh” Lại nói: Âm Phù nhị tự, Thân Tâm dã, Tính Tình dã, Thủy Hoả dã, Thần Khí dã, Diên Hống dã, Long Hổ dã, động tĩnh dã, nãi tu đơn chi căn bản, dưỡng đạo chi uyên nguyên.» (334)
Thanh Tĩnh Kinh (10 kinh)
Chủ Trương các bộ Thanh Tĩnh Kinh là đề cao Thanh Tĩnh.
Đó là học thuyết của Đỗ Quang Đình (Đường Mạt), của Bạch Ngọc Thiềm (Nam Tống), của Hầu Thiện Uyên (Kim Nguyên), của Lý Đạo Thuần (Nguyên Mạt, Minh sơ), Vương Đạo Uyên (Nguyên Mạt Minh Sơ).
Đại chỉ dĩ Thanh Tĩnh vi bản, khuyến nhân trừng tâm khiển dục, không vô thường tịch, nải chí tịch vô sở tịch, tắc thể hợp vu Đạo.
«Thanh giả Nguyên (Thần) dã, Tĩnh giả Khí dã, Kinh tắc Pháp dã, nhất tắc vi thánh nhân chi linh lộ; nhị tắc thần tiên chi thê đắng.» (335)
«Bất chấp Không vi không, bất chước Hữu vi Hữu.» (335)
Dung hợp đạo, thiền, dĩ trừng tâm, khiển dục, thanh tĩnh thường tịch vi tông chỉ. (335)
Thái Thượng lão quân thường thanh tĩnh kinh chú. (Bạch Ngọc Thiềm). (335)
Thái Thượng lão quân thanh tĩnh tâm kinh dĩ Thanh Tĩnh vi tông, hấp thụ Phật giáo không tịch tư tưởng, dĩ minh Đạo Gia thanh tĩnh vô vi chi diệu. Nhận vi nhân tâm bất tĩnh, giai nhân kỳ dục khiên lụy, Nhược vô kỳ dục, tắc tâm tự tĩnh nhi thần bất nhiễu, tắc thường thanh tĩnh, thường thanh tĩnh tắc năng thể hợp vu đạo (335)
Thanh tĩnh chi pháp, tẩy địch tâm cấu, sử nội ngoại giai tịnh, hoàn nguyên phản bản, phục Ngã Thái Hư, đắc đạo tự nhiên, vĩnh vô lưu chuyển. (336)
Thái Thượng Lão Quân Nội Thị Kinh.
Vị Nhân Tâm bản lai thanh tĩnh, nhân nhiễm Lục Tình nhi nhập Khổ Hải. Tâm nhược thanh tĩnh, tắc vạn họa bất sinh. Cố tu đạo tức thoại tu tâm, kỳ yếu tại Nôi Thị Kỷ Thân, trùng ký tâm dã.
Nội thị chi pháp, tiên tư vạn vật chi trung, nhân tối tôn quí. Mạc vọng nhiễm chư trần, tái diệt lụic thức, lục dục, hư tâm vô tâm, địng tâm an tâm, tĩnh tâm chính tâm, thanh tâm tịnh tâm, tâm tĩng thần định, dĩ chí vu loạn tưởng vô khởi, tà tâm bất sâm, chu thân cập vật, bế mục tư tầm, biểu lý hư tịch, thần đạo vi thâm. (335)
Thái Thượng Xích văn Đỗng cổ kinh chú.
Nhận tu chân dưỡng tính chi Đạo, nhận vi vô động vô vi thi vạn vật chi bản, bất thị bất thính vi chúng diệu chi môn, dưỡng kỳ vô tượng, thủ kỳ vô thể, tắc khả trường sinh, … tu Đạo giả ưng bão Nguyên Thủ Nhất, thanh tĩnh vô vi, qui căn phục lệnh.
Thái Thượng Xích văn Đỗng cổ Chân kinh chú.
Chú văn viết: Hướng Bất động trung động, vô vi trung vi, nội vong hình thể, ngoại vong thanh xác, dưỡng kỳ vô tượng, thủ kỳ vô thể, toàn kỳ bản chân, siêu xuất hư vô chi ngoại, thị vi tối thượng nhất thừa, vô thượng khả thượng, cố viết vô thượng.
Hựu vân PHẢN BẢN QUI CĂN, nhập hồ Vô Gián, tắc không khí hoán nhiên, tắc hồ thiên địa, quang minh phổ chiếu, cố viết Xích văn.
Tam luận huyền chỉ.
Tu tâm khế Đạo, kiến tính thành Chân.
Đại Đạo tự nhiên vô vi, … Đạo Tâm Tính tam giả vi nhất. Tức tâm thị Đạo, Tâm chi dữ Đạo, nhất Tính nhi nhiên.Cố tu Đạo chi yếu tại vu Tu Tâm Kiến Tính, thanh tĩnh vô vi, khiển trệ phá chấp.
Nhân hữu vi nhi đạt vô vi, nhân hữu sinh nhi đạt vô sinh, vô vi tự nhiên, thị vị Đại Đạo diệu dụng. (340)
Tham Đồng Khế.
Khế hợp: Đại Dịch, Hoàng Lão, Lô Hỏa thành một.
Tuổi thọ của các đạo sĩ
Các Đạo Sĩ xưa nay đều chủ trương Tu Luyện để Trường Sinh Bất Tử. Nhưng nghiên cứu tuổi thọ các Ngài. chỉ thấy vài vị sống hơn 100 tuổi (Thạch Hạnh Lâm, Vương Thường Nguyệt), vài vị sống trên 90 (Trương Bá Đoan, Lưu Nhất Minh) vài vị sống trên 80 (Lục Tiềm Hư, Huỳnh Nguyên Cát), còn thì cũng sống 60, 70 không hơn gì ai. Như vậy, bất quá là các ngài có thể diên niên, có thể sống lâu thêm ít năm mà thôi.
Sau đây, là tên tuổi các đạo sĩ qua các thời đại:
Nam Tông: Tu mệnh
Lưu thao (Lưu Hải Thiềm) truyền đạo năm 911.
Trương Bá Đoan (984-1082): 96 tuổi.
Thạch Hạnh Lâm (1022-1158): 136 tuổi.
Tiết Đạo Quang
Trần Nê Hoàn (?-1213)
Bạch Ngọc Thiềm (1194-1229): 35 tuổi ?
Bành Hạc Lâm (Bành Tỉ)
Bắc Tông: Tu Tính
Vương trùng Dương. (1112-1170): 58 tuổi.
Khưu Xử Cơ (1148-1227): 79 tuổi.
Lưu Xử Huyền (1146-1203): 57 tuổi.
Mã Ngọc (1123-1183): 60 tuổi.
Đàm Xử Đoan (1123-1195): 62 tuổi.
Hách Đại Thông (1140-1212): 72 tuổi.
Vương Xử Nhất (1142-1217): 75 tuổi.
Tôn Bất Nhị (1114-1182): 63 tuổi.
Lưu Nhất Minh (1724-1821): 97 tuổi. Long Môn Phái.
Đông Phái.
Lục Tiềm Hư, Lục Tây Tinh (1520- 1606): 86 tuổi.
Tây Phái.
Lý Hàm Hư (Lý Tây Nguyệt)
Trung Phái.
Lý Đạo Thuần đời Nguyên.
Huỳnh Nguyên Cát (1271-1355): 84 tuổi.
Xét về tuổi thọ, các môn phái nói trên cũng không phải đã đạt được số tuổi lý tưởng.
Cuối đời Hán (206-220), Ngụy Bá Dương nhân theo Long Hổ Kinh, lại rút tỉa tư tưởng Kinh Dịch, Hoàng Lão, mà soạn ra bộ Tham Đồng Khế, đã hệ thống hóa khoa Luyện Nội Đơn, vì thế Ông được tôn xưng là Vạn Cổ Đơn Kinh chi tổ.
Ông phân biệt Luyện Đơn với các phương thuật như Âm đạo, Thực Khí, Bộ Đẩu, Tế Lễ v.v… Mà ông cho là «những chuyện Nghịch thiên cơ, vi phản lại Đạo Giáo» (Bội nghịch thất khu cơ, tiền khước vi Hoàng Lão), là Bàng Môn tả đạo,
Chủ trương Tham Đồng Khế là đem triết học Chu Dịch, hợp nhất với Triết Học Lão Trang, là học thuyết Thiên Nhân Hợp Nhất, và phải tuân hành các định luật vận chuyển, biến hóa của trời đất, và cũng phải biết hòa hợp Âm Dương, đoạt tạo hóa chi công, và phản bản hoàn nguyên, phục qui ư Hư Vô Chi Đạo.
Như vậy muốn luyện đơn, phải biết căn bản con người. Mà bản thể con ngưởi là Thái Cực, Âm Dương là Tinh Khí Thần (Hồn Phách) là Âm Dương, là Dược Vật của Đơn Kinh, hay Kiền Khôn. Kiền Khôn mà phân ly, thì thành Vũ Trụ, Kiền Khôn mà hợp nhất thì thành Thái Cực. Hòa Hợp Âm Dương chính là «Nghịch Luyện Qui Nguyên».
Từ Ngụy Bá Dương, cho đến đời Nguỵ Tấn (220-313), thì khoa ngoại đơn với các phép phục thực, phục khí thịnh hành, còn khoa nội đơn thì chỉ có một số người tu tập. Mãi đến thời Trung Đường, khoa luyện đơn vói mấy đạo sĩ danh tiếng như Trương Quả (Trương Quả Lão trong bát tiên) và La công Viễn, đời Đường Huyền Tông (713-755) mới làm cho khoa nội đơn tinh tiến.
Thời Vãn Đường (841-905) và thời Ngũ Đại (907-960) khoa Ngoại đơn với chủ trương Phục Thực Thành Tiên bị thất bại, nên khoa nội đơn mới thịnh hành.
Lúc ấy có những danh nhân như Hán Chung Li (Cuối đời Hán, thày của Lữ Đồng Tân), Lữ Đồng Tân (780-?) Thi Kiên Ngô (đỗ Tiến Sĩ năm 815), Thôi Hi Phạm (đời Đường), Bành Hiểu (?-955, đời Ngũ Đại (907-1119), Lưu Hải Thiềm (Lưu Thao đời Ngũ Đại), Trần Đoàn (891-989 Ngũ Đại, Tống Sơ) Trương Vô Mộng (Ngũ Đại mạt, Bắc Tống).
Tôi quí chủ trương của Trương Vô Mộng. Ông dạy: Người nuốn vào chơi cửa Huyền Tẩn, phải bão phác thủ Nhất, phải tĩnh định cho tới chỗ rốt ráo, để trở về Nhất. Nhất và Đạo là cái gì hết sức tự nhiên, vì thế mới nói: Chí Thần thì vô phương, chí Đạo thì vô thể, có Vô Vi mới làm được mọi sự (Du Huyền Tẩn chi môn giả… qui hồ Bão Phác thủ tĩnh, tĩnh chi phục tĩnh, dĩ chí vu Nhất… Nhất chi dữ Đạo, cái tự nhiên nhi nhiên yên, thị dĩ Chí Thần vô phương, chí Đạo vô thể, vô vi nhi vô bất vi… Trung Hoa Đạo Giáo đại từ điển tr, 112)
Cho nên, Nhiếp Tình (Âm) Qui Tính (Dương) thì là Phản Bản Hoàn Nguyên, là Đơn thành.
Hán Chung Ly cũng chủ trương như Tham Đồng Khế, coi con người là một Tiểu Thiên Địa, và theo học thuyết Thiên Nhân Hợp Nhất, nếu biết nghịch luyện sẽ phản bản hoàn nguyên và Đơn sẽ thành.
Thời Vãn Đường là thời Tam Giáo hợp lưu, nên Thiền Học ảnh hưởng vào Đạo Lão rất nhiều.
Căn Bản của Tu Đạo là Vô Niệm.
Căn Bản của Phật Giáo là Chân Không.
Phật Giáo nói: Tuyệt niệm, vô tưởng chính là Chân Niệm. Chân Niệm chính là Chân Không, mà Chân Không là siêu thoát…
Lữ Đồng Tân cũng chủ trương Thiền Đạo Dung Hợp. Tục truyền sau khi Ông gặp Thiền Sư Hoàng Long Hối Cơ, Ông khâm phục Thiền Tông và chủ xướng Thiền Đạo Song Dung. Chủ trương của sách Sao Hào Ca là: Tính Mệnh Song Tu. Mà Tu Tính là Minh Tâm Kiến Tính của Thiền. Thế tức là Thiền Học và Nội Đơn Song Tu.
Chủ trương Tính Mệnh Song Tu và Thiền Đạo Tương Dung của Lã Đồng Tân là căn bản luyện đơn sau này. Các môn phái luyện Đơn thời Bắc Tống đều chủ trương theo Lữ Đồng Tân.
Đến Trương Bá Đoan (984- 1082) đời Tống Thần Tông, thì Đơn Đạo đã thành thục. Trương Bá Đoan viết quyển Ngộ Chân Thiên và Thiền Tông Thi Kệ cũng chủ trương Minh Tâm Kiến Tính, và cũng chịu ảnh hưởng Tham Đồng Khế. Trương Bá Đoan viết: Nếu muốn kết hợp với chí Đạo, thì phải biết bản tâm mình (Dục thể phù chí Đạo giả, mạc nhược minh hồ bản tâm). Thiền tông gọi Qui Căn phản Bản là trở về với cứu cánh không tịch chi Bản Nguyên.
Vương Trùng Dương, trong tập Kim Đơn Thi, gọi Qui Nguyên Phản Bản, hay được Kim Đan là: Bản lai Chân Tính viết Kim Đan.
Ngoài chủ trương Minh Tâm Kiến Tính, còn chủ trương Tĩnh Định. Mà Tĩnh Định thì Thiền Tông gọi là Vô Niệm Hành.
Các đơn gia chú trọng 2 phương diện: Một là Tu Tính và Tu Mệnh. Có người chủ trương Tu Tính trước, tu mệnh sau; có người chủ trương Tu Mệnh trước, tu Tính sau, có người chủ trương Tính Mệnh Song Tu v.v…
Hai là Thanh Tu và Song Tu. Người thì chủ trương Âm Dương sẵn có trong con người, cho nên chủ trương Nhất Kỷ Thanh Tu; có người cho rằng Âm Dương riêng rẽ nơi Nam Nữ, nên đề xướng Nam Nữ Song Tu. Những chủ trương sai biệt đó đã chia thành Ngũ Phái ở Trung Hoa (Nam Bắc, Trung, Tây, Đông Phái).
Nam Tông Phái chỉ những đơn gia theo chân Trương Bá Đoan.
Phái này chủ trương: Tiên Mệnh, Hậu Tính theo truyền thống nội đan mà luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, luyện Thần hoàn hư, lại thâm cứu Thiền Học, và muốn Liễu Triệt Tính Nguyên.
Về phương thức Tu Hành lại chia thành Thanh Tu và Song Tu hai phái.
Thanh Tu là phái của Bạch Ngọc Thiềm (1194-1229). Bach Ngọc Thiềm theo tôn chỉ của Trương Bá Đoan, và giảng Đơn Đạo rõ ràng. Dạy Bế Tức (Nhịn Thở), dạy Tĩnh Định, dạy Vong Tâm, dạy tìm Chân Tâm, Nguyên Tính, và Chân Ý. Dạy dùng Chân Ý luyện hóa Tinh Khí Thần.
Bạch Ngọc Thiềm dùng một chữ Vong (忘) để luyện Tinh Khí Thần. Vong Hình Dưỡng Khí, Vong Khí Dưỡng Thần, Vong Thần Dưỡng Hư. Chia toàn bộ công phu Tu Luyện thành: Thái Thủ, Kết Đơn, Phanh Luyện, Cố Tế, Vũ Hỏa, Văn Hỏa, Mộc Dục, Đơn Sa, Quá Quan, Ôn Dưỡng, Phòng Nguy, Công Phu, Giao Cấu, Bất Hoàn, Thánh Thai, Cửu Chuyển, Hoán Đỉnh.
Phái Song Tu là của Lưu Vĩnh Niên và các môn sinh là Ông Bảo Quang, Nhược Nhất Tử, Trần Chí Hư (1290-?) chủ trương Chân Diên phải lấy bên phái nữ, còn các phép tu khác cũng giống Thanh Tu phái.
BẮC TÔNG PHÁI LÀ DO VƯƠNG TRIẾT (VƯƠNG TRÙNG DƯƠNG) SÁNG LẬP. PHÁI CỦA ÔNG CÒN CÓ TÊN LÀ TOÀN CHÂN PHÁI. ÔNG CÓ 7 ĐỆ TỬ, AI CŨNG CÓ MÔN PHÁI RIÊNG. ÔNG CHỦ TRƯƠNG TIÊN TÍNH HẬU MỆNH, TRỪ TÌNH KHỨ DỤC, TOÁT TÂM THỦ NIỆM, MINH TÂM KIẾN TÍNH. BẮC TÔNG CHỦ TRƯƠNG THANH TU, ĐỀ XƯỚNG XUẤT GIA, KHỔ HẠNH, CẤM DỤC.
Từ đời nhà Nguyên Bắc Tông dung nhiếp Nam Tông và Lý Học. Cuối đời Minh, thì có Ngũ Thủ Dương (1574-1644), đời Thanh có Lưu Nhất Minh (1734-1821), Mẫn Nhất Đắc (1758-1836) xiển minh đơn đạo một cách rõ ràng.
Ngũ Thủ Dương viết bộ Tiên Phật Hợp Tông ngữ lục, và bộ Thiên Tiên Chính Lý Trực Luận sáng lập Ngũ Liễu Phái.
Lưu Nhất Minh là truyền nhân Long Môn Phái đời thứ 11. Mẫn Nhất Đắc cũng là truyền nhân Long Môn Phái đời 11. Ông viết rất nhiều.
Đầu đời Thanh còn có Vương Thường Nguyệt (1522- 1680), 159 tuổi, cũng thuộc Long Môn Phái, rất nổi tiếng.
Trung Phái tổng hợp Nam Bắc Phái, do Lý Đạo Thuần chủ xướng. Lý Đạo Thuần giảng giáo vào thời Tống mạt, Nguyên sơ.
Học Trò Bạch Ngọc Thiềm, Ông đề cao chữ Trung. Mục đóich của Ông là Trí trung Hòa vi nhất thân, thế là thành Tiên vậy. Trung tức là Huyền Quan Nhất Khiếu; Phật gia gọi là Bản Lai Diện Mục; Đạo gia gọi là Niệm Đầu bất khởi xứ; Nho gia gọi là: Hỉ nộ chi vị phát; Doãn Chân Nhân sư đệ gọi là Tính Mệnh chi căn, hay Vô Cực chi Chân Trung; Huỳnh Nguyên Cát gọi là Hoàng Trung trực thấu; Dịch Kinh gọi là Hoàng Trung thông lý. Đó chính là Giáo Ngoại biệt truyền.
Chủ trương của môn phái này rất hay và rất cao.
Doãn Chân Nhân sư đệ và Huỳnh Nguyên Cát (1271- 1355) cũng thuộc Trung Phái.
Đông Phái, do Lục Tây Tinh, (Lục Tiềm Hư) (1520- 1606) sáng tạo đời Minh.
Tên Lục Tây Tinh, tự Trường Canh, hiệu Tiềm Hư.
Thủa nhỏ học Nho, nhiều lần thi Hương không đỗ, bèn đi tu, lập môn phái riêng. Vì hoạt động tại vùng Giang, Triết nên xưng là Đông Phái.
Đông phái kỳ thực là một chi nhánh của Nam Tông, lấy Ngộ Chân Thiên làm căn bản. Gọi Khảm là Chân Khí, là Diên, là con gái, là Nguyệt. Gọi Ly là Chân Tinh, là Hống, là con trai, là Nhật. Như vậy, đơn đạo chẳng qua là Âm Dương mà thôi. Đó là thuyết Thủ Khảm Điền Ly. Như vậy, phái này chủ trương Âm Dương Nam Nữ song tu. Phái này chủ trương: Đồng loại tương hợp nhi thành, trúc phá trúc bổ, Nhân phá nhân bổ.
Có sách ghi khi Ông ẩn cư trong núi, Lữ Đồng Tân hiện ra và trú ở Bách Hải Thảo Đường của Ông 20 ngày và truyền thụ cho Ông đơn quyết. Ông tu luyện thêm 20 năm. Đến năm 1564, thì giác ngộ.
Ông viết nhiều sách: như Kim Đơn tựu chính thiên, như Chu Dịch Tham Đồng Khế trắc sớ, Nam Hoa phụ mặc, Lăng Nghiêm kinh Thuyết Ước v.v…
Ông chủ trương Nam Hoa Kinh tổ thuật Đạo Đức Kinh, và cũng chính là Phật Gia Bất Nhị Pháp Môn, và coi Lão Thích là một nhà.
Ông cũng chính là tác giả bộ Phong Thần Diễn Nghĩa.
Tây Phái do Lý Tây Nguyệt (Lý Hàm Hư) sáng lập đời vua Hàm Phong nhà Thanh (1851).
Môn phái này hoạt động tại Tứ Xuyên.
Tự xưng đã được Trương Tam Phong (đời Nguyên và đời Minh) và Lữ Đồng Tân (đời Đường) truyền đạo. Như vậy Trương Tam Phong và Lữ Đồng Tân đã chết từ lâu.
Về tu luyện, Lý Hàm Hư chủ trương Thanh Tĩnh tuyệt đối, nhưng đi vào chi tiết rất nhiều, không giản dị như Đông Phái. Ông viết nhiều sách như Đạo Khiếu Đàm, Tam Xa Bí Chỉ. v.v…
(Viết theo bài Nội đơn, trong Trung Quốc Đạo giáo, đệ Tam Quyển, tr. 330-336, Trung Quốc Đạo Giáo, Đệ Nhất quyển, Khanh Hi Thái, Đông Phương Xuất Bản Trung Tâm và Trung Hoa Đạo Giáo Đại từ Điển, Hồ Hoài Sâm).
Lý Thiết Quải – Tranh Tề Bạch Thạch
SRT: Công Minh
Chia sẻ bài viết:
LÊ CÔNG
0919.168.366
PHÚC THÀNH
0369.168.366
Một số cách an sao vòng Trường Sinh trong tử vi
TÍNH CÁCH, MẪU NGƯỜI, TRONG LÁ SỐ TỬ VI
7 nguyên tắc cơ bản sau cần phải xem kỹ trước khi bình giải một lá số Tử Vi
THẾ NÀO LÀ TUẾ PHÁ & NGŨ HOÀNG ĐẠI SÁT
BÍ QUYẾT SONG SƠN NGŨ HÀNH VÀ THẬP NHỊ THẦN ĐẠI PHÁP (TIÊU SA NẠP THỦY THEO THỦY PHÁP TRƯỜNG SINH)
Ý nghĩa của việc thờ bàn thờ Ông Địa
“BẢN GỐC” CỦA THƯỚC LỖ-BAN DÀNH CHO CÁC BẠN THẬT SỰ HAM MÊ PHONG THỦY !!!
LÊ LƯƠNG CÔNG
Trụ sở: Số 12, Trực Cát , Vĩnh Niệm, Lê Chân, Hải Phòng
Tel: 0919.168.366 - Hotline: 0919.168.366 - Email: nhadatcongminh@gmail.com
Copyright © 2019 https://leluongcong.com/