Huyền không Phi Tinh
31/08/2020 - 3:56 PMLê Công 1023 Lượt xem

VÒNG LƯỢNG THIÊN XÍCH

Vòng Lượng Thiên Xích hay còn gọi là “Cửu Tinh Đảng Quái” là quỷ đạo di chuyển của 9 ngôi sao trong Lạc Thư và trong Hậu Thiên Bát Quái. Đây là một phương pháp dùng để đo lường Thiên Vận nên gọi là Lượng Thiên Xích (xích: cây thước; lượng: đo). Người xưa dùng nó để tính toán tìm ra những giai đoạn Cát, Hung, Họa, Phúc cho nhà cửa (Dương Trạch) cũng như mộ phần (Âm Trạch).

VÒNG LƯỢNG THIÊN XÍCH

Bắt đầu xuất phát bay ở Trung Cung, tùy theo từng trường hợp cụ thể mà sao sẽ bay thuận hay nghịch.

I.BAY THUẬN:

Bay theo thứ tự từ nhỏ đến lớn

Ví dụ 1: Sự bay thuận trong vị trí gốc (Nguyên Thủy)

Bắt đầu từ sao số 5 nhập vào trung cung, thì số 6 đến Tây Bắc, 7 đến Tây, 8 đến Đông Bắc, 9 đến Nam, 1 đến Bắc, 2 đến Tây Nam, 3 đến Đông, 4 đến Đông Nam.

Sơ đồ bay thuận

BAY NGHỊCH:

Bay theo thứ tự từ lớn đến nhỏ

Ví dụ 2: Nhập sao 5 vào trung cung, khi bay nghịch thì sao 4 đến Tây Bắc, 3 đến Tây, 2 đến Đông Bắc, 1 đến Nam, 9 đến Bắc, 8 đến Tây Nam, 7 đến Đông, 6 đến Đông Nam.

HAI MƯƠI BỐN SƠN HƯỚNG VÀ TAM NGUYÊN LONG

I.HAI MƯƠI BỐN SƠN HƯỚNG TRÊN LA KINH

Theo Hậu Thiên Bát Quái, người xưa chia La Kinh ra làm 8 phương hướng đều nhau, mỗi số gắn liền với một con số của Cửu Tinh là: Bắc số 1, Đông Bắc số 8, Đông số 3, Đông Nam số 4, Nam số 9, Tây Nam số 2, Tây số 7, Tây Bắc số 6. Riêng số 5 vì nằm ở Trung Cung nên không có phương hướng (8 số còn lại là số nguyên thủy của phương vị)

Đặt Hậu Thiên Bát Quái lên La Kinh gồm 3600, chúng ta có mỗi hướng sẽ chiếm 450. Các danh sư phong thủy tiền bối đã dùng Hậu Thiên Bát Quái của vua Chu Văn Vương áp vào Lạc Thư để tạo nên 8 cung.

Vào thời Đường và Tống, các phong thủy sư lại phân chia mỗi hướng ra làm 3 sơn nhỏ, mỗi sơn bằng 150 để cho việc luận đoán chính xác hơn. La Kinh lúc này đã có đủ 24 sơn hướng như hiện nay.

Để đặt tên cho 24 sơn hướng này họ dùng 12 địa chi, 8 thiên can (trừ Mậu – Kỷ) và 4 quẻ Càn, Khôn, Cấn, Tốn. Vì vậy, La Kinh có 24 sơn hướng như sau: Các hướng đi theo thứ tự từ trái qua phải (theo chiều kim đồng hồ).

Hướng Bắc (số 1) gồm 3 sơn:                       Nhâm – Tý – Quý

Hướng Đông Bắc (8) gồm 3 sơn:                  Sửu – Cấn – Dần

Hướng Đông (3) gồm 3 sơn:                          Giáp – Mão – Ất

Hướng Đông Nam (4) gồm 3 sơn:                 Thìn – Tốn – Tị

Hướng Nam (9) gồm 3 sơn:                           Bính – Ngọ – Đinh

Hướng Tây Nam (2) gồm 3 sơn:                    Mùi – Khôn – Thân

Hướng Tây (7) gồm 3 sơn:                             Canh – Dậu – Tân

Hướng Tây Bắc (6) gồm 3 sơn:                     Tuất – Càn – Hợi

 TAM NGUYÊN LONG 

Sau khi đã biết được 24 sơn (hay hướng) thì còn phải biết chúng thuộc về Nguyên nào, và là dương hay âm, để có thể xoay chuyển phi tinh Thuận hay Nghịch khi lập trạch vận. Nguyên này không phải là “Nguyên”chỉ thời gian như đã nói trong“Tam Nguyên Cửu Vận”, mà là chỉ địa khí của long mạch, hay phương hướng của trái đất mà thôi “ nên gọi là Tam nguyên Long”. 
Tam nguyên long bao gồm: Địa nguyên long, Thiên nguyên long, và Nhân nguyên long. Mỗi Nguyên bao gồm 8 sơn (hay 8 hướng), trong đó có 4 sơn Dương và 4 sơn Âm như sau:      

- THIÊN NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn :
* 4 sơn dương: CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN.
* 4 sơn âm: TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU. 


- ĐỊA NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:
* 4 sơn dương: GIÁP, CANH, NHÂM, BÍNH.
* 4 sơn âm: THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI. 


- NHÂN NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:
* 4 sơn dương: DẦN, THÂN, TỴ, HỢI.
* 4 sơn âm: ẤT, TÂN, ĐINH, QUÝ. 
     Với sự phân định âm hay dương của mỗi hướng như trên, người ta có thể biết được lúc nào phi tinh sẽ đi thuận hoặc đi nghịch, khi xoay chuyển chúng theo vòng LƯỜNG THIÊN XÍCH.(điều này sẽ được nói rõ trong phần lập tinh bàn cho trạch vận). 
     Ngoài ra, nếu nhìn kỹ vào sự phân chia của Tam nguyên Long , ta sẽ thấy trong mổi hướng của Bát quái được chia thành 3 sơn, và bao gồm đủ ba Nguyên: Địa,Thiên, Nhân nguyên long, theo chiều kim đồng hồ.

  Thí dụ  Như hướng BẮC được chia thành 3 sơn là NHÂM-TÝ-QUÝ, với NHÂM thuộc Địa nguyên long, TÝ thuộc Thiên nguyên long, và QUÝ thuộc Nhân nguyên long. Các hướng còn lại cũng đều như thế, nghĩa là Thiên nguyên long ở chính giữa, Địa nguyên long nằm bên phía tay trái, còn Nhân nguyên long thì nằm bên phía tay phải. Từ đó người ta mới phân biệt ra Thiên nguyên long là quẻ Phụ mẫu, Địa nguyên long là Nghịch tử (vì nằm bên tay trái của Thiên nguyên long tức là nghịch chiều xoay chuyển của vạn vật), còn Nhân nguyên long là Thuận tử.

Trong 3 nguyên Địa –Thiên - Nhân thì Thiên và Nhân là có thể kiêm được với nhau (vì là giữa phụ mẫu và thuận tử). Còn Địa nguyên long là nghịch tử chỉ có thể đứng 1 mình, không thể kiêm phụ mẫu hay thuận tử. Nếu Địa kiêm Thiên tức là âm dương lẫn lộn (hay âm dương sai thố). Nếu Địa kiêm Nhân thì sẽ bị xuất quái. 

  Sưu tầm 

 


Tin liên quan

Chia sẻ bài viết: 



Bình luận:

Hỗ trợ trực tuyến

LÊ CÔNG

0919.168.366

PHÚC THÀNH

0369.168.366

Nhà đất bán theo tỉnh thành
Nhà đất cho thuê theo tỉnh thành
Kinh Dịch
Tử vi
Huyền không Phi Tinh
Văn Hóa_Tín Ngưỡng
Thước lỗ Ban
Xen ngày tốt
Huyền không Phi Tinh
TIN NỔI BẬT

LÊ LƯƠNG CÔNG

Trụ sở: Số 12, Trực Cát , Vĩnh Niệm, Lê Chân, Hải Phòng

Tel: 0919.168.366 - Hotline: 0919.168.366 - Email: nhadatcongminh@gmail.com

Copyright © 2019 https://leluongcong.com/