Kinh nghiệm trong dân gian
28/09/2020 - 4:33 PMLê Công 773 Lượt xem

THÁNG BẢY CÓ PHẢI LÀ THÁNG CÔ HỒN?

Trả lời: Tôi xin trả lời nghiêm túc là: Không! Không phải!

Bàn luận:
Những tích hay, tốt đẹp, mang đậm tính nhân văn, như cúng rằm, cúng chúng sanh, thí thực, phóng sanh, … rất hay, chấp nhận được, giúp ta trưởng dưỡng tâm từ, quan tâm chia sẻ tới cộng đồng, …

Vu Lan Báo Hiếu: hay, nghĩ tưởng tới báo hiếu Ông Bà, Cha Mẹ, với người còn sống, hay đã khuất (cầu cho các Linh Hồn Siêu Thoát), …

Đấy, dừng lại ở việc cúng thôi, thì được, tự dưng lại kiêng kỵ lung tung, gây nên sự hoang mang, lo lắng, sợ hãi không cần thiết trong xã hội là điều không tốt, mà chúng tôi thấy sự việc được đẩy đi ngày càng xa, mỗi năm một tăng dần, điều ấy rất nguy hiểm khi kinh tế, xã hội ngưng trệ trong giai đoạn cả tháng này (bỗng nhiên năm nay lại nhân đôi thành 02 tháng).

Kết luận: Chúng ta phải gạn đục khơi trong, cái nào hay thì tiếp thu, bảo tồn, bảo tàng, còn những cái tào lao không phù hợp với thời đại, ấu trĩ thì … bỏ qua cho con cháu nó nhờ, cứ khư khư bám chấp, thì làm sao mà khá cho nổi.

Bàn … loạn: Nhưng nói như thế thì chưa thỏa mãn mọi người! Chúng ta cùng lan man nhé!

Để giải quyết: Tôi sẽ chia làm 02 Phần:
Phần I: Câu trả lời chính;
Phần II: Tham khảo.

Phần I: Phần trả lời chính: Tôi sẽ trả lời theo 02 ý:
1.     Tâm Linh:
Câu trả lời là: Không Có Câu Trả Lời.
Vì sao tôi lại nói vậy?

Đúng hay sai là tùy tâm chúng ta, có hay không có, đúng hay sai thì chúng ta tự chọn vậy!
Người nào thấy có rất nhiều chuyện (phải nhiều nhé!) ứng nghiệm, xảy ra trong tháng Bảy này đối với mình, hoặc với gia đình mình, hay với những người xung quanh, trong tháng Bảy, của năm trước, của năm nay, hay trong nhiều năm liên tục thì vậy là nó đúng.

Và ngược lại, thì không đúng.

Không mắc gì phải nghe theo ai đồn đãi, truyền tụng nhảm nhí rồi nặng nề, ảnh hưởng tới nhiều việc của bản thân, của gia đình và của toàn xã hội.

Theo sách vở thì Tháng Bảy là tháng của Tiết Mùa Vu Lan Báo Hiếu, tích Nhà Phật; Thời ấy, Đức Phật chủ trì và có đông đảo Tăng Già đạo hạnh đức độ, cao thâm, cùng hiệp sức thì mới mở/phá được cửa Địa Ngục.

Đấy, phải là như thế, mới phá được cửa Địa Ngục. Địa Ngục cơ mà! Nơi ấy giam ai thì mọi người biết rồi, đâu phải dễ mà bỡn cợt được đâu!

Thời bây giờ, mấy ai có đủ năng lực để mà cùng hiệp lực đi phá Địa Ngục; không khéo, còn bị kéo/bắt luôn vào đấy chứ lị!

Còn chuyên Xá Tội Vong Nhân gì gì ấy thì cũng mơ hồ quá, đã vào ấy rồi (nếu có) thì đừng mơ tưởng lung tung, còn một khi mãn hạn rồi thì có ra được cũng chẳng có mấy người dám đi quậy phá, họ đã ý thức rồi, hì hì!

Thôi, không có chuyện nhảm này đâu!

Ta, bị ảnh hưởng bởi ngụy tư tưởng của “thằng … lạ”, “thằng” này hay mị dân, có vậy nó mới quản được cả tỷ người của nó. Chính chúng nó mới là cô hồn.

Bỏ qua nhé!

Về ý kiến: Tháng Sáu (nhuận) cũng là Tháng Bảy (Cô Hồn); Để tìm hiểu rõ hơn, ta sang phần sau:

2.     Theo Tiết Khí:
Về vấn đề này thì đúng … một nửa;

Theo Lịch Tiết Khí của năm nay (nhuận 02 tháng 6), Tháng Sáu (Nhuận) có 30 ngày thì một nửa tháng trước là của tháng Sáu, còn từ ngày 16.6 trở đi được xem là của tháng Bảy.

Và tương tự như vậy, vào ngày 17.7 AL trở đi là đã qua tháng Tám rồi Bà Con ạ (Vậy là hết tháng Bảy – Hì Hì!)

Phần II: Tham Khảo – Mở rộng:

Năm Nhuận là do đâu nhỉ?
Lịch tính thời gian theo mặt trời gọi là dương lịch. Trái đất quay trọn một vòng xung quanh mặt trời mất 365 ngày và 6 giờ. Năm dương lịch có số nguyên là 365 ngày. Như vậy, một năm dương lịch còn thừa 6 giờ và 4 năm dồn lại thừa 24 giờ, bằng một ngày. Do vậy, cứ 4 năm sẽ có một năm 366 ngày, gọi là năm nhuận. Nhuận ngày dương lịch được tính vào tháng 2. Do đó, tháng 2 năm 2004 có 29 ngày.

Lịch tính thời gian theo mặt trăng gọi là âm lịch. Tháng mặt trăng trung bình có 29,5 ngày. Một năm âm lịch có 354 ngày, ngắn hơn năm dương lịch 11 ngày. Cứ 3 năm lại ngắn hơn 33 ngày (hơn 1 tháng).

Để âm lịch vừa chỉ được tuần trăng, vừa không sai lệch nhiều với thời tiết 4 mùa, cứ 3 năm âm lịch người ta phải cho thêm một tháng nhuận để năm âm lịch và dương lịch không sai nhau nhiều. Tuy nhiên, như vậy vẫn chưa đủ, năm âm lịch vẫn chậm hơn so với năm dương lịch. Người ta khắc phục tình trạng trên bằng cách cứ 19 năm lại có một lần cách 2 năm thêm một tháng nhuận.

Trong 19 năm dương lịch có 228 tháng dương lịch, tương ứng với 235 tháng âm lịch, thừa 7 tháng so với năm dương lịch, gọi là 7 tháng nhuận. Bảy tháng trước đó được quy ước vào các năm thứ 3, 6, 9 hoặc 8, 11, 14, 17, 19 của chu kỳ 19 năm.

Với năm âm lịch, muốn tính năm nhuận chỉ việc lấy năm dương lịch tương ứng với năm âm lịch chia cho 19, nếu số dư là một trong các số: 0, 3, 6, 9 hoặc 11, 14, 17 thì năm âm lịch đó có tháng nhuận.

Năm nhuận chỉ là một thủ pháp của các nhà làm lịch nhằm làm cho năm âm lịch và dương lịch không sai lệch nhau nhiều, không có hàm ý gì về thời tiết, khí hậu.

Tiết/Mùa Vu Lan; Vu Lan Bồn là gì? Ý nghĩa của nó ra sao?
Vu lan (chữ Hán: 盂蘭, bính âm: Zhōngyuán Jié; sa. ullambana), còn được hiểu là lễ báo hiếu, là một trong những ngày lễ chính của Phật giáo (Đại thừa Bắc tông) và phong tục Trung Hoa.

Lễ này trùng với Tết Trung nguyên của người Hán, và cũng trùng hợp với ngày Rằm tháng 7 Xá tội vong nhân của phong tục Á Đông. Theo tín ngưỡng dân gian, là ngày mở cửa ngục, ân xá cho vong nhân nên có lễ cúng Cô Hồn (vào buổi chiều) cho các vong linh không nhà cửa không nơi nương tựa, không có thân nhân trên Dương thế để thờ cúng, và là ngày mọi tù nhân ở Địa ngục có cơ hội được xá tội, được thoát sanh về cảnh giới an lành. Vào “tháng cô hồn” (tháng 7 âm lịch), người Trung Quốc và người Việt Nam theo phong tục dân gian tin là tháng không may mắn và có những điều kiêng kỵ, cũng như là khuyến khích ăn chay và làm việc từ thiện.

Từ nguyên

Vu-lan (chữ Hán: 盂蘭; sa. ullambana) là từ viết tắt của Vu-lan-bồn (盂蘭盆), cũng được gọi là Ô-lam-bà-noa (烏藍婆拏), là cách phiên âm Phạn-Hán từ danh từ ullambana. Ullambana có gốc từ động từ ud-√lamb, nghĩa là “treo (ngược) lên”. Thế nên các đại sư Trung Quốc cũng dùng từ Đảo huyền (倒懸), “treo ngược lên” cho từ Vu-lan, hoặc dùng từ Giải đảo huyền (解倒懸) là dịch ý theo mục đích của Kinh Vu-lan-bồn. Thật ra, từ Giải đảo huyền được các đại sư Trung Quốc lấy ý từ câu: Dân chi duyệt chi do giải đảo huyền dã trong Mạnh Tử, chương 3 Công Tôn Sửu Thượng, chỉ sự giải thoát cho những kẻ khổ sở tột cùng ở cảnh giới Địa ngục.

Sự tích

Xuất phát từ sự tích về Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ. Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung) – cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước.

Theo kinh Vu Lan thì ngày xưa, Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông. Mẹ ông là bà Thanh Đề đã qua đời, ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt phép nhìn khắp trời đất để tìm. Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác nên phải sanh làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng đã hóa thành lửa đỏ.

Cũng theo kinh Vu-Lan-bồn, Mục Kiền Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: “Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để cung thỉnh chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó”.

Làm theo lời Phật, mẹ của Mục Liên đã được giải thoát. Phật cũng dạy rằng: chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu-Lan-Bồn Pháp). Từ đó, ngày lễ Vu-lan ra đời.

Vu Lan Bồn Kinh

Kinh Vu-Lan-Bồn (chữ Hán:佛說報恩奉盆經, bính âm:Fúshuō Bào’ēn Fèngpén jīng, Hán-Việt: Phật thuyết báo ân phụng bồn kinh, còn gọi là Phật thuyết Vu Lan Bồn kinh) là một bộ kinh Đại thừa, bao gồm một bài giảng ngắn gọn (“pháp thoại”) được cho là bởi Đức Phật Thích Ca dạy nhà sư Mục Kiền Liên cách thực hành đạo hiếu, theo đó Phật dạy cách làm thế nào để có được sự giải thoát cho mẹ mình, và cách báo hiếu cha mẹ, những người đã được tái sanh vào cõi âm, bằng cách cúng dường thực phẩm cho Tăng đoàn vào ngày rằm tháng bảy, và nhờ lời chư Tăng chú nguyện mà được cứu độ.

Truyền thống Phật giáo cho rằng kinh này đã được dịch từ tiếng Phạn bởi cao tăng Trúc Pháp Hộ (chữ Hán:竺法護, sa. Dharmarakṣa, Đàm Ma La Sát) dịch vào khoảng cuối thế kỷ thứ III đầu thế kỷ thứ IV.

“Tuy nhiên, các học giả gần đây thừa nhận rằng kinh này ban đầu không có gốc từ Ấn Độ mà được trước tác tại Trung Quốc vào giữa thế kỷ thứ sáu”. Văn bản gốc do Trúc Pháp Hộ dịch (hoặc được viết trong thời đại của ông) còn lưu lại đều không đề cập đến nhân thân của Tôn giả Mục Kiền Liên và câu chuyện của mẹ ông, mà chỉ trong các tác phẩm của người đời sau tại Trung Quốc, như Mục Kiền Liên minh gian cứu mẫu biến văn được xác định viết vào khoảng từ thế kỷ thứ V đến cuối thế kỷ thứ X, mới có kể về sự tích trên.

Cũng có giả thuyết cho rằng, câu chuyện Mục Kiền Liên là biến tấu từ chuyện Ưu Đa La mẫu đọa ngạ quỷ duyên, gọi tắt là kinh Ưu Đa La mẫu có viết trong mục “Chuyện ngạ quỷ” của bộ Tiểu bộ kinh, chỉ thay tên nhân vật từ Ưu Đa La (Uttara hay là Uttaramātu) thành Mục Kiền Liên và thay tên người giảng là một tỳ kheo thành lời giảng của đức Phật.

Trong một số nước Đông Á, Á Đông, ngày lễ này thường được tổ chức vào ngày 15 tháng 7 (Âm lịch), để tỏ hiếu với cha mẹ, ông bà và cũng để giúp đỡ những linh hồn đói khát.

Ngoài ra, còn có cúng dường, làm phước, phóng sinh, bố thí để hồi hướng công đức cho cha mẹ.

Trung Quốc

Trong văn hóa Trung Hoa, ngày rằm tháng bảy âm lịch thuộc Tiết Trung Nguyên và được gọi là Ngày ma (hồn người chết) và tháng thứ bảy nói chung được coi là Tháng ma (鬼月, Quỷ nguyệt), trong đó những con ma và linh hồn, bao gồm cả của tổ tiên đã qua đời, đến từ các cõi âm. Cùng với lễ Thanh minh (vào mùa xuân) và Trùng cửu (vào mùa thu), con cháu còn sống tỏ lòng tôn kính đối với tổ tiên đã qua đời của họ, trong Lễ hội hồn ma, người chết được cho là về thăm những người sống.

Vào ngày thứ mười lăm, cõi thiên đàng và địa ngục và cõi người sống mở cửa và cả tín đồ Đạo giáo và Phật giáo sẽ thực hiện các nghi lễ để chuyển hóa và giải oan khổ của người quá cố. Trọng tâm cho Tháng âm hồn là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, nơi mà theo truyền thống hiếu thảo của con cháu đối với tổ tiên của họ kéo dài ngay cả sau khi tổ tiên đã qua đời. Các hoạt động trong tháng này sẽ bao gồm việc chuẩn bị thực phẩm cúng dường nghi lễ, đốt hương, đốt giấy vàng mã, một dạng hiện vật bằng giấy như quần áo, vàng và hàng hóa tốt khác để cúng dường tổ tiên khi họ về thăm. Bữa ăn được chuẩn bị chu đáo (thường là ăn chay) sẽ được phục vụ với các ghế trống cho mỗi người quá cố trong gia đình và đối xử với những người đã chết như thể họ vẫn đang còn sống.

Việt Nam

Tại Việt Nam, việc cúng Rằm tháng Bảy bao giờ cũng phải cúng ở chùa (thờ Phật) trước, rồi mới đến cúng tại gia. Lễ này thường được làm vào ban ngày, tránh làm vào ban đêm, khi Mặt Trời đã lặn. Ngoài ra, theo truyền thống tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong dân gian, ngày này là ngày “Xá tội vong nhân” nên nhiều nhà có mâm cơm cúng trước nhà, để cúng những vong linh bơ vơ không gia đình, còn gọi theo dân gian là “cúng cô hồn, “cúng thí thực” (tặng thức ăn).

Vào ngày này, mọi gia đình đều cúng hai mâm: cúng tổ tiên tại bàn thờ tổ tiên và cúng chúng sinh (cúng thí thực hay cúng cô hồn) ở sân trước nhà hoặc trên vỉa hè (nếu đường rộng), thời gian cúng có thể là vào buổi sáng, trưa hoặc chiều.

Trên mâm cúng tổ tiên, gia đình bày đặt một mâm cỗ mặn, tiền vàng và cả những vật dụng dành cho người cõi Âm tức đồ mã làm bằng giấy có tính tượng trưng nhưng hình dạng giống như đồ thật như quần áo, giày dép, áo bào, cung điện, ngựa, các vật dụng trang sức…, mũ kepi, người giúp việc … đến những vật hiện đại: nhà cao tầng, xe ô tô, xe máy, điện thoại… để cho người cõi Âm có được một cuộc sống tiện nghi giống như người Dương trần. Những đồ lễ đó thường được làm tại các cơ sở sản xuất (nổi tiếng là khu phố vàng mã ở Chợ Lớn TP.HCM” được vận chuyển đi khắp các tỉnh thành.

Trên mâm cúng chúng sinh thì lễ vật gồm có: quần áo chúng sinh với nhiều màu sắc (xanh lam, xanh lá mạ, vàng, hồng…), các loại bỏng ngô, chè lam, kẹo vừng, kẹo dồi, bánh quế, cháo, tiền vàng, cốc nước lã hoặc rượu (có thể thêm nước ngọt, bia nếu có điều kiện), cốc gạo trộn lẫn với muối (cốc này sẽ được rắc ra vỉa hè hoặc sân nhà về bốn phương tám hướng sau khi cúng xong), ngô, khoai lang luộc, cháo hoa… và những lễ vật khác dành cho những cô hồn, ma đói không nơi nương tựa. ở chùa khi cúng chúng sinh xong người ta thường gọi những đứa trẻ xung quanh đến rồi cho chúng cùng nhảy vào tranh cướp những vật cúng: như bỏng, oản… tượng trưng cho những cô hồn…

Tại các chùa và hội đoàn Việt Nam, vào ngày lễ Vu Lan thường có nghi thức “Bông hồng cài áo”, là cài bông hồng cho những ai còn mẹ và bông trắng cho những ai mất mẹ, nhắc nhở về lòng hiếu thảo và tình người. Nghi thức này do thiền sư Thích Nhất Hạnh khởi xướng trong cuốn sách viết năm 1962.

Một số địa phương có tục lệ riêng như ở Quy Nhơn thì dân chúng xếp thuyền giấy rồi thả ra biển để tưởng nhớ những ai ra khơi rồi mất tích như hồi thập niên 1980-90 với nạn thuyền nhân vượt biên.

Vào “tháng cô hồn”, người Việt Nam theo phong tục tin là tháng không may mắn và có những điều kiêng kỵ như không mua sắm, không đi chơi đêm, không nhổ lông chân, không phơi quần áo, không bơi lội… và tùy vùng còn có thêm những kiêng kỵ khác như không khai trương, mở cửa hàng, lập gia đình, xây nhà,…

Nhiều người còn kiêng cữ và ăn chay trong tháng 7 nên các hàng quán bán thức ăn mặn và rượu bia (như tại Thành phố Hồ Chí Minh) buôn bán ế ẩm và thường đóng cửa sớm.

Nhật Bản (Vu Lan Bồn)

Tại Nhật Bản ngày lễ này được tổ chức vào ngày 15 tháng 8 dương lịch, gọi là Obon (お盆?) hay là Bon (盆?), nói tắt của chữ urabon’e hay Vu Lan Bồn Hội (盂蘭盆會), thường kéo dài 3 ngày. Vào những ngày này, người Nhật thường có hỏa thiêu lễ vật và vào đêm cuối, Tōrōnagashi (灯籠流し), thả những chiếc đèn nổi trên sông để hướng dẫn linh hồn người quá cố. Theo truyền thống, kết hợp với một lễ hội múa dân gian, mỗi địa phương có sự tổ chức khác nhau.

Để tỏ những ước nguyện của mình, người ta viết ước nguyện rồi treo vào cây trúc với mong ước điều ước đó sẽ trở thành hiện thực.

 Tổng Kết:

Những tích hay, tốt đẹp, mang đậm tính nhân văn, như cúng rằm, cúng chúng sanh, thí thực, phóng sanh, … rất hay, chấp nhận được, giúp ta trưởng dưỡng tâm từ, quan tâm chia sẻ tới cộng đồng, …

Vu Lan Báo Hiếu: hay, nghĩ tưởng tới báo hiếu Ông Bà, Cha Mẹ, với người còn sống, hay đã khuất (cầu cho các Linh Hồn Siêu Thoát), …

Đấy, dừng lại ở việc cúng thôi, thì được, tự dưng lại kiêng kỵ lung tung, gây nên sự hoang mang, lo lắng, sợ hãi không cần thiết trong xã hội là điều không tốt.

Chúng ta phải gạn đục khơi trong, cái nào hay thì tiếp thu, bảo tồn, bảo tàng, còn những cái tào lao không phù hợp với thời đại, ấu trĩ thì … bỏ qua cho con cháu nó nhờ, cứ khư khư bám chấp, thì làm sao mà khá cho nổi.

 ST: Công Minh

 


Tin liên quan

Chia sẻ bài viết: 



Bình luận:

Hỗ trợ trực tuyến

Lê Công

0369.168.366

Nhà đất bán theo tỉnh thành
Nhà đất cho thuê theo tỉnh thành
Kinh Dịch
Tử vi
Huyền không Phi Tinh
Văn Hóa_Tín Ngưỡng
Thước lỗ Ban
Xen ngày tốt
Kinh nghiệm trong dân gian
TIN NỔI BẬT

LÊ LƯƠNG CÔNG

Trụ sở: Số 31 - Mương An Kim Hải - Kenh Dương, Le Chan, Hai Phong

Tel: 0369168366 - Hotline: 0919.168.366 - Email: nhadatcongminh@gmail.com

Copyright © 2019 https://leluongcong.com/