Huyền không Phi Tinh
10/01/2021 - 4:42 PMLê Công 2939 Lượt xem

Niên, nguyệt, nhật, thời tử bạch phi tinh pháp

Năm Phi tinh bắt đầu lệ quyết:

Năm Phi tinh bắt đầu lệ quyết:

Năm Phi tinh bắt đầu lệ quyết:

Thượng nguyên giáp tý trắng nhợt lên, trung nguyên bốn tái đẩy giáp tý .

Hạ nguyên thất xích đoái vị tìm , từng năm tinh nghịch Trung cung Là.

( nghịch sổ như ý phi )

Thượng nguyên: (65 - trụ số ) ngoại trừ 9 sau khi số . Trung nguyên: (68- trụ số ) ngoại trừ 9 sau khi số . Hạ nguyên: (62- trụ số ) ngoại trừ 9 sau khi số }
Tam nguyên cửu vận mỗi nguyên mỗi bên 20 năm , ở đây 20 năm trung hàng năm thiên thể của vận hành vị trí bất đồng , đối với địa cầu của phản chiếu cũng khác biệt , một thân cùng sự tình của cát hung khác nhau , ngoài ứng nghiệm kết quả là có khác biệt , tại 20 năm trung cửu tinh vòng ba lần vận chiếu địa cầu , ngoại trừ năm hoàng bên ngoài tổng cộng năm thứ hai mươi bốn , lại giảm mây phụ mẫu ba bàn lấy chính tam nguyên , dư hai mươi mốt vị trí , tăng thêm hoàng kim độ sai lệch hàng năm cùng góc lệch địa bàn tính hai chừng mười năm , bởi vì âm dương trạch là chú trọng không gian cùng thời gian thông khí của học vấn , khí lưu cát hung tùy thời đều đang biến hóa , cho nên năm tử bạch phi tinh đối với phong thủy cát hung biến hóa là có ảnh hưởng rất lớn đấy, đang phán đoán phong thuỷ hàng năm của cát hung , nhất định phải vận dụng năm tử bạch phi tinh bàn .
Thượng nguyên giáp tý năm là do trắng nhợt bắt đầu đấy, là như ý phi năm nghịch sổ. Như ất sửu năm thì từ chín nhập Trung cung như ý phi tám nước , bính dần năm thì từ bát bạch nhập Trung cung như ý phi bát phương , cái khác năm giống đây. Huyền không phong thuỷ chú trọng nhất nguyên vận , thủ tam nguyên cửu vận . Một nguyên lại phân ba cái vận , mỗi vận tổng cộng 20 năm , mỗi nguyên cộng 180 Năm , tam nguyên chia làm thượng nguyên , trung nguyên , hạn guyên . Năm tử bạch khẩu quyết là thượng nguyên một , bốn , bảy , cũng chính là thượng nguyên một vận năm thứ nhất giáp tý bắt đầu từ một bạch nhập trung nghịch mất , trung nguyên giáp tý năm thì từ bốn tái nhập Trung cung , nghịch mất; hạ nguyên giáp năm Tý thì từ thất xích nhập Trung cung nghịch mất . Chúng ta bây giờ chính xử hạ nguyên giáp tử, từ 1984 lập xuân tiết bắt đầu là thất xích nhập ở bên trong, tám năm năm lập xuân sau thành lục bạch , tám sáu năm lập xuân tức là năm vàng, cứ thế mà suy ra , tỉ như nói năm ngoái 2002 Năm Nhâm Ngọ, thì từt hất xích nhập Trung cung , năm nay quý vị năm thì từ lục bạch nhập Trung cung , còn lại đồng đều bình chú phương pháp này , vòng đi vòng lại , sinh sôi không ngừng .

Nguyệt phi tinh bắt đầu lệquyết:

Nguyệt phi tinh bắt đầu lệ quyết:

Tí ngọ mão dậu bát bạch cầu ,

Thìn tuất sửu mùi năm cung du lịch ,

Bốn mạnh chi niên từ nhị hắc , nghịch tầm nguyệt phần như ý cung lưu .

Lại quyết:

Tí ngọ mão dậu bát bạch cung ,  

Thìn tuất sửu mùi năm Hoàng Trung .

Dần thân tị hợi ở cần gì phải vị trí , nghịch tìm nhị hắc là thật tông .

( nghịch sổ như ý phi )


{ tứ chính năm . Nguyệt tử bạch nhập trung số: ( 18- nguyệt số ) ngoại trừ 9 sau khi số . Tứ mộ năm: ( 15- nguyệt số ) ngoại trừ 9 sau khi số . Tứ sinh năm:
( 12- nguyệt số ) ngoại trừ 9}

Tí ngọ mão dậu năm tháng giêng bắt đầu bát bạch ,

thìn tuất sửu mùi năm tháng giêng bắt đầu năm vàng,

dần thân tịnăm Hợi tháng giêng bắt đầu nhịhắc .

Tháng giêng nhập trung đẩy ngược tháng như ý phi cửu cung , lưu niên cùng lưu nguyệt đều là đẩy ngược thuận số.

Tại hàng năm của lưu hành nguyên khí vận hành ở bên trong, hàng năm mười hai tháng của vận hành lại mỗi bên có khác biệt , mỗi một cái nguyệt đều có một ngôi sao nhập Trung cung , chúa tể tháng này sinh ra sát khí , cổ thư hữu vân"Vượng năm bát bạch Trung cung có , mộ năm năm hoàng năm sinh hắc , trục nguyệt tinh nghịch cung nhưý mất , trong vòng một tuần có phỏng đoán". Nói cách khác nguyệt tử bạch , trên mặt đất vượng chi niên sử dụng bát bạch nhập Trung cung , tại tứ mộ chi niên từ năm hoàng nhập Trung cung; tại tứ sinh chi niên từ nhị hắc nhập Trung cung . Mỗi tháng địa tinh nghịch mất , mà mỗi cung thì như ý phi . Như: quý vị(2 0 0 3 Năm ) bởi vì là vị năm , là tứ mộ khố năm , tháng giêng bắt đầu sử dụng năm hoàng nhập Trung cung , như ý phi bát phương , tháng hai thì sử dụng bốn tái nhập Trung cung , nhưý phi bát phương , cái khác giống đây.
Nguyệt tử bạch là trục nguyệt lưu hành khí độ, không được phân thượng trung hạ tam nguyên , đồng đều này pháp đẩy đi , vài năm nguyệt tử bạch năm hoàng chỗ đến chi phương , đồng đều kị khai sơn lập hướng tu phương , tiếp xúc không thể phạm tới , phạm nhân mọi việc bất lợi . Ngoài ra cửu tinh có cát có hung , phối hợp lý do hình thức cùng huyền không phi tinh , định ngoài vượng suy sinh tử, mỗi bên thứ năm đi sinh ra khắc mà thôi, cát hung định phán cũng .

Nhật phi tinh bắt đầu lệ quyết:

Nhật phi tinh bắt đầu lệquyết:

Nhật nhà tử bạch không khó cầu , hai mươi bốn khí sáu cung tuần ,

Đông chí dương sinh trước sau tiết , thuận hành giáp tý một cung dời ,

Nước mưa liền từ bảy cung lên, cốc vũ còn từ bốn tái đẩy ,

Âm sanh hạ chí cửu cung nghịch , tiết xử thử trước sau ba bích là,

Tiết sương giáng sáu cung bắt đầu giáp tý , thuận nghịch rõ ràng thập nhị chi ,

Có ra sao tinh đang trực nhật , dời nhập Trung cung thuận nghịch phi .

Lại quyết:

Nhật nhà tử bạch không khó cầu , hai mươi bốn khí sáu cung tuần .

Đông chí nước mưa cùng cốc vũ , dương như ý một bốn thất trung du lịch .

Hạ chí tiết xử thử tiết sương giáng về sau, chín ba sáu tinh nghịch hành cầu .

{ dương tam nguyên 42 đông chí - hạ chí 42 nhập trung hậu như ý phi:
Dương thượng nguyên ( đông chí - nước mưa ): trụ sống oại trừ 9 sau khi số. Dương trung nguyên ( nước mưa - cốc vũ ): ( trụsố+6 ) ngoại trừ 9 sau khi số nhập trung như ý phi
Dương hạ nguyên ( cốc vũ - hạchí ): ( trụ số+3 ) ngoại trừ 9 sau khi số}
{ âm tam nguyên 42 hạchí - đông chí 42 nhập trung hậu bay ngược:
Âm thượng nguyên ( hạ chí - tiết xử thử): (64- trụ số) ngoại trừ 9 sau khi số. Trong âm nguyên ( tiết xử thử- tiết sương giáng ): (67- trụ số) ngoại trừ 9 sau khi số
Âm hạ nguyên ( tiết sương giáng - đông chí ): (6 1- trụ số) ngoại trừ 9 sau khi số}
Nhật phi tinh là do đông chí trước sau gần nhất của giáp tý mặt trời mọc trắng nhợt thuận hành , như giáp tý mặt trời mọc trắng nhợt , ất sửu mặt trời mọc nhị hắc , bính dần mặt trời mọc ba bích các loại, đến nước mưa của trước sau giáp tý thì hẳn là thất xích , đến cốc vũ của trước sau giáp tý hẳn là bốn tái . Bởi vì hạchí một âm sanh , cho nên từ hạ chí trước sau gần nhất của giáp tý mặt trời mọc cửu tử nghịch hành , như giáp tý mặt trời mọc cửu tử, ất sửu mặt trời mọc bát bạch , bính dần mặt trời mọc thất xích các loại, khắp nơi thửcủa trước sau giáp tý thì hẳn là ba bích , đến tiết sương giáng của trước sau giáp tý thì hẳn là lục bạch .

Thời phi tinh bắt đầu lệquyết:

Thời phi tinh bắt đầu lệquyết:

Tam nguyên lúc bạch tốt nhất , đông chí dương sinh nhưý đừng chênh lệch ,

Mạnh nhật bảy cung trọng trắng nhợt , cuối kỳ nhật bốn tóc lục nảy sinh ,

Mỗi thanh giờ bắt đầu giáp tý , bản lúc tinh diệu chiếu ánh sáng chói chang ,

Lúc tinh di nhập Trung cung mất , như ý phi bát phương trục tế tra ,

Hạ chí âm sanh nghịch quay đầu , mạnh về ba bích cuối kỳ gia tăng sáu ,

Trọng tại cửu cung bắt đầu từ giáp , y nguyên trong lòng bàn tay nghịch vòng vượt .

Lại quyết:

Tứ chính thượng nguyên bắt đầu nhất cửu , tứ mộ trung nguyên bốn sáu tìm .

Tứ sinh hạ nguyên là bảy ba , đông hậu như ý sắp xếp hạ hậu nghịch .
( đông tử sửu dần 147 như ý sắp xếp như ý phi   hạ 936 nghịch sắp xếp bay ngược )
{ đông chí - hạ chí nhập trung như ý phi 42 tứ chính: lúc số ngoại trừ 9 số dư . Tứ mộ: ( lúc số +3 ) ngoại trừ 9 . Tứ sinh: ( lúc số +6 ) ngoại trừ 9}
{ hạ chí - đông chí nhập trung bay ngược 42 tứ chính: ( 19- lúc số ) ngoại trừ 9 . Tứ mộ: ( 16- lúc số ) ngoại trừ 9 . Tứ sinh: ( B- số lúc ) ngoại trừ 9}
Thời đại nhật lúc tử bạch phi tinh ngoài phương vịkhông thay đổi , nhưng phương pháp đa dạng , tiếp xúc không nên chết nhớ công thức , chỉ có linh hoạt ứng dụng trong tay ở bên trong, trong lòng là đủ.

 st: Lê Công

KHỞI NIÊN BẠCH QUYẾT

Niên bạch Tam Nguyên, các bất đồng
Thượng Nguyên Giáp Tý khởi Khảm cung.
Trung Nguyên Tứ Lục, cung trung khởi
Hạ Nguyên Thất Xích nghịch hành cung.

Nghĩa là: Khởi Bạch tinh về niên mỗi vận đều khác.

Như Thượng Nguyên năm Giáp Tý thì khởi ở cung Khảm Nhất Bạch. 

Trung Nguyên thì năm Giáp Tý khởi ở cung Tốn Tứ Lục.

Hạ Nguyên năm Giáp Tý thì khởi ở cung Thất Xích Đoài, tất cả đều là đi nghịch.
Mỗi một Giáp Tý thì đều nghịch hành Cửu tinh ở từng năm, nhưng khi nhập trung cung rồi thì phi thuân.

Như Thượng Nguyên năm Giáp Tý thì khởi ở cung Khảm là Nhất Bạch, năm Ất Sửu sẽ là cung Cửu Tử Ly,

năm Bính Dần sẽ là Bát Bạch Cấn… Khi nhập trung cung thì năm Giáp Tý Nhất Bạch Khảm nhập trung, thuận phi, Nhị Hắc Khôn đến Càn, Tam Bích Chấn đến Đoài…; năm Ất Sửu thì Cửu Tử là Ly sẽ nhập trung cung, thuận phi, Nhất Bạch Khảm đến Càn, Nhị Hắc Khôn đến Đoài… Các vận khác cũng tính như thế, tuỳ sao của Vận đó khởi từ đâu mà tính tiếp cho các năm sau.

Cách dễ nhớ nhất là tính ngược:

Ví dụ:

Thượng Nguyên

Giáp Tý là Nhấtthì

Giáp Tuất là Cửu,

Giáp Thân là Bát,

Giáp Ngọ là Thất,

Giáp Thìn là Lục,

Giáp Dần là Ngũ.

Đến Trung Nguyên

Giáp Tý là Tứ,

Giáp Tuất là Tam,

Giáp Thân là Nhị,

Giáp Ngọ là Nhất,

Giáp Thìn là Cửu,

Giáp Dần là Bát.
Đến Hạ Nguyên

Giáp Tý là Thất,

Giáp Tuất là Lục,

Giáp Thân là Ngũ,

Giáp Ngọ là Tứ,

Giáp Thìn là Tam,

Giáp Dần là Nhị.
Các anh chị, các bạn cũng thấy, tất cả thành một vòng khép kín, từ Thượng Nguyên đến Trung Nguyên rồi Hạ Nguyên, tuy khởi cung khác nhau nhưng khí vận xoay vần tuần tự nối tiếp nhau không chút sai lệch. Cách tính cách cung một tuần Giáp như thế này sẽ tiện cho chúng ta tìm những năm cách xa năm hiện tại.
Tu tạo, khởi công làm thì Đại Kỵ kiến phương của bản cục. Nghĩa là: Khảm cục thì lấy Nhất Bạch làm Kiến, nếu Nhất Bạch đáo phương Khảm thì không nên làm. Lại kỵ Sát tinh của bản cục ở đấy. Như là Khảm cục kỵ Nhị Hắc Bát Bạch gia đáo bản cung Khảm. Phạm Kiến thì thương Trạch Trưởng, phạm Sát thì chiêu hoành hoạ (tai hoạ đến bất kỳ). Lại Tam Bạch là Cát tinh đến đấy, dầu khắc bản phương vẫn lấy là Tiểu Cát, còn Ngũ tinh khác thì chỉ lấy sinh bản phương mới làm Cát, nếu không phải là Sinh thì đều là Hung.

NGUYỆT BẠCH KHỞI CHÍNH NGUYỆT TINH QUYẾT

Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu Bát Bạch cung
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi Ngũ Hoàng trung
Dần, Thân, Tị, Hợi cư hà vị
Nghịch tầm Nhị Hắc thị kỳ trung.

Nghĩa là: Năm Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu thì tháng giêng khởi Bát Bạch. Năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì khởi Ngũ Hoàng. Năm Dần, Thân, Tị, Hợi thì khởi Nhị Hắc. Tất cả đều là nghịch hành theo các tháng, nhưng cung vẫn đi thuận.
Như năm nay là năm Sửu thì tháng giêng là Ngũ Hoàng, tháng hai là Tứ Lục, tháng ba là Tam Bích, tháng tư là Nhị Hắc… Rồi tháng giêng nhập trung cung là Ngũ, thì Lục đến Càn, Thất đến Đoài, Bát đến Cần… Tháng 8 là Thất Xích nhập trung cung, thì Bát Bạch đến Càn, Cửu Tử đến Đoài, Nhất Bạch đến Cấn… Các năm khác khởi tháng cũng y theo thế mà suy.
Cái Cát, Hung của năm thì còn chậm, chứ cái Cát, Hung của tháng thì tới mau lắm.

TAM NGUYÊN NHẬT BẠCH QUYẾT

Nghĩa là: Những ngày bắt đầu từ sau tiết Đông Chí thì lấy Giáp Tý khởi Nhất Bạch. Những ngày từ sau tiết Vũ Thuỷ thì lấy Giáp Tý khởi Thất Xích. Những ngày sau tiết Cốc Vũ thì lấy Giáp Tý khởi Tứ Lục. Những ngày sau tiết Hạ Chí thì lấy Cửu Tử cho ngày Giáp Tý. Những ngày sau tiết Xử Thử thỉ lấy Giáp Tý khởi Tam Bích. Những ngày sau tiết Sương Giáng thì lấy Giáp Tý khởi Lục Bạch. Dương thì theo chiều thuận, Âm phải theo chiều ngược quay đi. Tìm đúng Lục Giáp thì lâu dài phát phước không nghĩ.

Ở trên mình chỉ in đâm có một hàng của tiết Đông Chí, chỉ là để nhấn mạnh với các anh chị, các bạn rằng: Đừng lầm tưởng cứ ngày Giáp Tý sau Đông Chí đều là Nhất Bạch. Mà là khởi ngày Giáp Tý là Nhất Bạch. Nếu như ngày giao tiết Đông Chí đó mà ngay ngày Giáp Tý thì không có gì để bàn cãi, NHƯNG nếu như đó không phải ngày Giáp Tý thì tính cách nào?
Ví dụ: Ngày giao tiết Đông Chí là ngày Canh Dần. Ta cứ khởi Giáp Tý là Nhất Bạch, do từ Đông Chí đến Hạ Chí là Dương khí thịnh, nên thuộc Dương, đi thuận. Giáp Tý là Nhất, Ất Sửu là Nhị, Bính Dần là Tam, Định Mẹo là Tứ…Giáp Tuất là Nhị…Giáp Thân là Tam, Ất Dậu là Tứ, Bính Tuất là Ngũ, Đinh Hợi là Lục, Mậu Tý là Thất, Kỷ Sửu là Bát, Canh Dần là Cửu. Vậy ngày giao tiết Đông Chí, ngày Canh Dần đó là sao Cửu Tử. Muốn động cung nơi nào thì đem Cửu Tử nhập trung, thuận phi đi.
Các tiết khí kia cũng y theo vậy mà tính.
Các tiết Đông Chí, Vũ Thuỷ, Cốc Vũ là thuộc Dương, đi thuận ngày, lẫn thuận cung khi nhập trung.
Các tiết Hạ Chí, Xử Thử, Sương Giáng thuộc Âm, đi nghịch ngày, nhưng vào trung cung vẫn thuận.

TAM NGUYÊN THỜI BẠCH QUYẾT

Tam Nguyên thời bạch, nhật tương đồng
Dương thuận, Âm nghịch nhập trung cung
Đông Chí Nhất, Tứ, Thất dương kỳ
Hạ Chí Cửu, Lục, Tam thị tông.

Nghĩa là: Khởi Bạch của giờ cũng như lệ khởi ngày, Dương thì đi thuận giờ, Âm thì đi nghịch giờ và vào đến trung cung rồi đều thuận phi đi 8 phương. Tiết Đông Chí thì nhớ là khởi Nhất Bạch, Tứ Lục và Thất Xích. Tiết Hạ Chí nhớ là khởi Cửu Tử, Lục Bạch và Tam Bích.
Quá khó hiểu phải không các anh chị, các bạn. Đọc chẳng biết sau tiết Đông Chí khi nào dùng Nhất, khi nào dùng Tứ và khi nào dùng Thất cả. Thực ra cái này là phân theo nhóm ngày Mạnh, Trọng, Quý thôi. Các ngày Tý Ngọ Mẹo Dậu là nhóm thứ nhất, tương ứng với sao thứ nhất trong cả hai tiết Đông Chí và Hạ Chí. Thìn Tuất Sửu Mùi là nhóm thứ hai, tương ứng với sao thứ hai trong cả hai tiết Đông Chí và Hạ Chí. Dần Thân Tị Hợi là nhóm thứ ba, tương ứng với sao thứ ba trong cả hai tiết Đông Chí và Hạ Chí. Nói đến đây, NCD chắc chắn rằng cũng còn một vài anh chị, bạn nào đó chưa hiểu, ví dụ sẽ thấy ngay thôi.
Ví dụ: Giờ Thìn của Ngày Thân sau tiết Đông Chí, nhưng chưa đến Hạ Chí.
Ta thấy Thân trong nhóm thứ ba, vậy thì sao thứ ba trong tiết Đông Chí là gì? Nhất, đến Tứ, đến Thất. Vậy giở Tý của ngày đó sẽ khởi là sao Thất Xích, giờ Sửu là sao Bát Bạch, giờ Dần là sao Cửu Tử…. Giờ Thìn có sao Nhị Hắc nhập trung, thì Tam Bích đến Càn, Tứ Lục đến Đoài, Ngũ Hoàng đấn Cấn…
Ví dụ: Giờ Ngọ ngày Mùi sau tiết Hạ Chí, trước tiết Đông Chí.
Ta thấy Mùi trong nhóm thứ hai Thìn Tuất Sửu Mùi, nên tương ứng với sao thứ hai của tiết Hạ Chí, đó là sao Lục Bạch. Vậy giờ Tý ngày hôm đó là sao Lục Bạch quản trị, giờ Sửu là Ngũ Hoàng (nhớ nghen, đây là Âm nên đi nghịch), giờ Dần là Tứ Lục, giờ Mẹo là Tam Bích, giờ Thìn là Nhị Hắc, giờ Tị là Nhất Bạch, giờ Ngọ là Cửu Tử. Ta lấy giờ Ngọ Cửu tử nhập trung, THUẬN PHI, đi 8 phương thì Nhất Bạch đến Càn, Nhị Hắc đến Đoài, Tam Bích đến Cấn…
Còn một cách nữa là ta nhớ theo Thiên, Địa, Nhân Tam Nguyên Long của Huyền Không. “Thiên Nhất Cửu, Địa Tứ Lục, Nhân Thất Tam”. Cứ ngày thuộc Thiên thì tiết Đông Chí lấy Nhất Bạch, tiết Hạ Chí lấy Cửu Tử. Ngày thuộc Địa thì tiết Đông Chí lấy Tứ Lục, tiết Hạ Chí lấy Lục Bạch. Ngày thuộc Nhân thì tiết Đông Chí lấy Thất Xích, tiết Hạ Chí lấy Tam Bích.
Ta lại để ý, thứ tự các sao trong tiết Đông Chí là Nhất, đến Tứ, đến Thất là các số thuộc nhóm 1-4-7 y như Tam Ban Quái, lớn dần lên theo chiều thuận. Các sao trong tiết Hạ Chí là Cửu, Lục, Tam là các số thuộc nhóm 3-6-9 y như Tam ban Quái nhưng nhỏ dần theo chiều nghịch đi xuống. Ta cứ lấy ba Địa Chi đầu tiên làm chuẩn mà tính sẽ dễ và lẹ rất lẹ: Ngay Tý cứ đọc Nhất Cửu, còn thuộc Đông Chí thì lấy số trên, Hạ Chí lấy số dưới. Ngay Sửu thì cứ đọc Tứ Lục, thuộc Đông Chí lấy số trên, thuộc Hạ Chí thì lấy số dưới. Ngay Dần thì đọc Thất Tam, thuộc Đông Chí thì lấy số trên, thuộc Hạ Chí thì lấy số dưới. Còn nhóm đó chẳng qua là các nhóm Tứ Hành Xung mà NCD nghĩ chúng ta ai cũng biết rồi đó.
Trên đây cả, năm, tháng, ngày, giờ chỉ có gặp các sao Tử, Bạch Sinh khí thì mới là Đại lợi. Tu tạo ở ba phương Bạch thì không kỵ Thái Tuế, Tướng Quân, Quan Phù, Đại Hao, Tiểu Hao, hành niên bản mệnh được mọi điều Cát. Chỉ có Thiên Cương Tứ Vượng, Sát Đại Nguyệt Kiến thì chẳng nên phạm. Cẩn thận!

TỔNG LUẬN

NIÊN, NGUYỆT BẠCH QUYẾT

Bát Quái sơn đầu số yếu tinh.
Chiêu nhiên dị kiến, lý nghi minh
Ai niên, toán nguyệt, bình tai hoạ.
Huyền huyền thấu lý, quỷ thần kinh.

Nghĩa là: Cái độ số của tám phương thuộc về Tam Nguyên phi đến bản cục cốt phải tinh tường, rõ rệt dễ thấy, lý luận phân minh. Phải tính tháng và năm của Nguyên Vận tinh phi đến. Tuy huyền bí cao siêu, nhưng Lý Khí mà thấu được thì quỷ thần cũng kinh sợ.
Những cái Sát khí gia thuỷ cục tất thị phát hung, như là Nhị Hắc gia Khảm cục vậy. Sinh Khí gia Mộc cục tất phát phước, như là Nhất Bạch gia Tứ Tốn vậy. Trước lấy Chủ Vận của Tam Nguyên gia đấy, thì sau định hai mươi năm Cát, Hung. Rồi lại theo năm và tháng , lấy quản trị tinh gia vào đấy, thì cái hạn Cát, Hung có thể quyết đoán được.
Lại Tam Nguyên độ số đến bản cục, làm Ám Kiến, đối cung làm Ám Phá. Như Thượng Nguyên Giáp Tý, thì năm Bính Dần đáo Cấn, thì Cấn cục làm Ám Kiến, Khôn cục làm Ám Phá. Nguyên là Cát Địa, Mỹ Huyệt thì lay động Bản Long, vậy mọi sự được Cát Tường. Nếu là đất Hung, Huyệt sai lầm thì mọi sự Đại Hung.
Những Can Chi của Thái Tuế ở bản vị làm Minh Kiến, đối cung làm Minh Phá. Như năm Giáp Tý, Giáp ở cung Chấn làm Can Minh Kiến, Tý ở Khảm cung làm Chi MInh Kiến. Vậy thì Đoài làm Can Minh Phá, Ly làm Chi Minh Phá. Năm Mậu, Kỷ thì Can Kiến Phá đều ở Trung cung. Phạm vào Can Kiến, Phá thì hoạ, phước giảm một nửa. Phạm vào Chi Kiến, Ph1 thì Đại Hung, không nên phạm.

CỬU TINH KHẮC ỨNG QUYẾT

Nhất Bạch tinh bản thuộc Thuỷ
Chấn, Tốn tu tạo mỹ
Khan khan Thất, Bát, Cửu nguyệt lai
Giao tiến Nam phương ngoại khí tài.
Nhị Hắc tinh bản thuộc Thổ
Kiền, Đoài phùng chi tu tạo mỹ
Thả đãi Nhị, Bát nguyệt giao lai
Tiến nhập Đông, Bắc, Tây phương tài
Tam Bích tinh bản thuộc Mộc
Dư cung mạc tạo Tác
Giáo quân Nam phương dụng trước thời
Tây phương hoá vật lục tuần chí (Tứ Lục tinh đồng).
Ngũ Hoàng tinh trung Thổ tôn
Tây Bắc chính tương thân
Thử tinh d6ãn khả tu Kiền, Đoài
Thất, Bát, Cửu nguyệt ngoại tài lâm (Bát Bạch cánh Cát).
Lục Bạch tinh nguyên thuộc Kim
Khảm sơn dụng chi phước dĩ thâm
Đãn giao Tứ, Lục, Thất, Bát nguyệt
Đông Nam hỷ chí, lạc hân hân (Thất Xích tinh đồng).
Cửu Tử bản thuộc Hoả
Khôn, Cấn nhị phương tu tạo khả
Trực đãi Dần, Tị, Ngọ nguyệt niên
Bắc phương tài sản lai, phi toả.
Nghĩa là:
Sao Nhất Bạch vốn thuộc Thuỷ, về phương Chấn và phương Tốn tu tạo (đặt táng hay làm nhà) thì tốt đẹp. Xem thấy tháng 7, tháng 8, tháng 9 liền lại, thì có ngoại tài ở phương Nam tiến tới.
Sao Nhị Hắc vốn thuộc Thổ, về phương Đoài và phương Kiền, gặp được lúc tu tạo thì tốt, và đợi đến tháng 2 và tháng 8 khí giao lai, thì có của ở phương Đông Bắc và phương Tây tiến đến.
Sao Tam Bích vốn thuộc Mộc, các cung khác không nên tạo tác. Chỉ có phương Nam mà dụng làm thì có của cải ở phương Tây đưa đến, chỉ 60 ngày là đưa đến => Mau phát. (Sao Tứ Lục cũng như sao này).
Sao Ngũ Hoàng thuộc Thổ, là sao tôn trọng ở Trung cung, phương Tây Bắc chính là tương thân. Sao này chỉ nên tu tạo ở hai phương Kiền và Đoài, các tháng 7, 8, 9 thì có ngoại tài đến (sao Bát Bạch gặp cũng tốt lành).
Sao Lục Bạch nguyên thuộc Kim, phương Khảm mà gặp được, tạo tác thì phước càng lâu bền, to dầy. Nhưng đợi tháng 4, 6, 7 giao khí đến, thì có vui mừng ở phương Đông Nam đến (sao Thất Xích cũng như sao này).
Sao Cửu Tử vốn thuộc Hoả, gặp hai phương Khôn và Cấn thì nên tu tạo. Đợi đến tháng hoặc năm Dần, Tị, Ngọ thì tốt, sẽ có tài sản ở phương Bắc đem đến, chẳng phải khoá cửa.

THÁI TUẾ SƠN ĐẦU BẠCH TINH QUYẾT

Tý niên Nhất Bạch nhập Trung cung.
Ngọ tái tương phùng Cửu Tử đồng.
Mẹo tuế Trung cung Tam Bích hội.
Dậu niên Thất Xích thị tinh tông.
Mùi, Thân nhị niên câu Nhị Hắc
Thìn, Tị hồi lai Tứ Lục trung.
Tuất, Hợi Trung cung khởi Lục Bạch.
Sửu, Dần Bát Bạch chính tương phùng.
Bạch đáo sơn đầu nghi tác dụng
Âm phần, lập Trạch, tử tôn vinh.
Bạch trung hữu sát nghi hồi tị.
Phạm giả tu giao lập kiến hung.

Nghĩa là: Năm Tý thì sao Nhất Bạch nhập Trung. Năm Ngọ thì sao Cửu Tử nhập Trung. Năm Mẹo thì sao Tam Bích nhập Trung. Năm Dậu thì sao Thất Xích nhập Trung. Năm Mùi và năm Thân thì lấy sao Nhị Hắc nhập Trung. Năm Thìn và năm Tị thì lấy sao Tứ Lục nhập Trung. Năm Tuất và năm Hợi thì khởi sao Lục Bạch nhập trung.
Năm Sửu và năm Dần thì sao Bát Bạch nhập Trung. Những sao Bạch đến cung Tọa, Hướng thì nên làm nhà, hay làm mộ phần thì con cháu được hiển vinh. Ở trong phương mà sao Bạch phi đến lại bị Sát thì nên tránh đi không dùng, nếu phạm vào thì lập tức thấy ngay cái Hung.
Trên đây là 12 năm, năm nào lấy sao gì nhập Trung cung để phi ra Bát phương. Tìm 3 sao Bạch đến phương nào thì phương ấy tốt, nên tu tạo. Nhưng bị Sơn sát thì tránh không nên làm.
Ví dụ như năm Tý, ta lấy Nhất Bạch nhập Trung cung, thì Tứ Lục đến Cấn, là Mộc khắc Thổ, nếu làm tại Cấn Sơn, Phương (Động Thổ, Tu Tạo) thì 4 người bị thương. Phạm Nhất Bạch sát thì bị thương 1 người, phạm sao Nhị Hắc sát thì bị thương 2 người… Lấy số của sao mà suy đoán.
Cốt là biết ứng vào thời điểm nào. Như sao Tứ Lục thì có thể là 40 ngày, là 4 tháng; xa thì lấy năm Thìn, năm Tị hoặc năm tương xung là năm Tuất, năm Hợi sẽ ứng..
Cần biết là người nào bị tổn thương, thì lấy Địa Chi ở phương phạm ấy, ứng vào đó. Như Cấn phương là Sửu, Dần thì ứng vào người tuổi Sửu, tuổi Dần…
Phép đoán tháng cũng cùng như năm. Như năm Dần lấy Bát Bạch nhập Trung. Bạch trung sát giả, là Ám Kiến Sát, Lục Tiệp Sát, Xuyên Tâm Sát, Đấu Ngưu Sát, Giao Kiếm Sát, Thụ Khắc Sát, những phương phạm Sát đều chẳng nên phạm.

Công Thành


Tin liên quan

Chia sẻ bài viết: 



Bình luận:

Hỗ trợ trực tuyến

Lê Công

0369.168.366

Nhà đất bán theo tỉnh thành
Nhà đất cho thuê theo tỉnh thành
Kinh Dịch
Tử vi
Huyền không Phi Tinh
Văn Hóa_Tín Ngưỡng
Thước lỗ Ban
Xen ngày tốt
Huyền không Phi Tinh
TIN NỔI BẬT

LÊ LƯƠNG CÔNG

Trụ sở: Số 31 - Mương An Kim Hải - Kenh Dương, Le Chan, Hai Phong

Tel: 0369168366 - Hotline: 0919.168.366 - Email: nhadatcongminh@gmail.com

Copyright © 2019 https://leluongcong.com/