Từ năm mươi tuổi, đến ngày sinh thì không làm sinh nhật nữa, mà gọi là “Mừng Thọ” Tố Thọ. Ngày ấy, có mời thân bằng quyến thuộc đến dự tức có người ngoài. Sau đó, cứ mười năm tổ chức mừng thọ một lần, gọi là “Đại sinh nhật” sinh nhật lớn.
Danh xưng mừng thọ theo các tuổi thường gọi như sau:
-. 50 tuổi, gọi là “Noãn thọ” thọ ấm áp hay “Bán bách thiêm thọ” thọ nửa trăm
-. 60 tuổi, gọi là “Tiểu thọ”.
-. 70 tuổi, gọi là “Trung thọ”.
-. 80 tuổi, gọi là “Thượng thọ” hay “Đại thọ”.
-. 90 tuổi, gọi là “Giáng Ráng Lão thiêm thọ” thọ đỏ. Gọi tắt là “Lão thọ”.
-. 100 tuổi, xưng là “Kỳ Di” thuật ngữ riêng chỉ cho trăm tuổi
Song long chúc thọ
*. KẾ TIẾP LÀ CÚNG TẾ TỔ TIÊN:
-. cơm sáu, mười hoặc mười hai bát
-. trái cây
-. ba chén nhỏ trà
-. bảy chín, mười một chén nhỏ rượu.
-. ba chén xôi nước
-. mì sợi khoanh tròn, trên đặt sợi chỉ đỏ
-. bánh hình trái đào thọ, bánh hình con rùa
-. đốt đèn, nhang vái 3 vái cúng tổ, vái nguyện
-. nhang cháy được một phần ba, hai tay bưng lư hương vái 3 vái cúng tổ tiên
-. đốt giấy tiền vàng bạc các loại đại thọ kim, thọ kim, ngãi kim, phúc kim, xem giải thích ở Bài Cúng Tổ Tiên
-. lấy rượu cúng tạt vào giấy vàng bạc đang cháy cho ngọn lửa bùng lên
-. thu dọn đồ cúng
-. lễ xong
CÚNG ĐẦY THÁNG
Theo phong tục của vùng Mân Nam và Thương Gia buôn bán, khi sinh một đứa trẻ, người ta tiến hành tổ chức lễ mừng vào các thời điểm sau:ba ngày, đầy tháng, bốn tháng, giáp năm thôi nôi.
Khi sinh con được một tháng, thì làm lễ “Cúng đầy tháng”. Cụ thể là, con trai thì lấy ngày thứ ba mươi, con gái thì lấy ngày thứ hai mươi chín kể từ ngày sinh để tính. Một số nơi lại lấy ngày thứ hai mươi bốn để cúng, dựa theo ý “nhị thập tứ hiếu”, mong cầu đứa trẻ về sau cũng hiếu thảo với cha mẹ giống như những nhân vật trong sách này.
NGHI THỨC TANG LỄ
NGHI THỨC AN TÁNG
TRÌNH TỰ CHÔN CẤT
Quan niệm xưa nay đều cho rằng, an táng là dịp để con cháu báo hiếu với cha mẹ, nhưng phải làm sao để tránh những tư tưởng mê tín, tuy muốn nói lên sự giàu có của gia tộc, nhưng không nên vắt cạn tiền bạc sức lực ra để làm đám.
Ở nông thôn trước đây, trong xã hội phong kiến, xem lễ tang là một trong những lễ nghi quan trọng, tổ chức rất trọng thể. Hiện nay theo điều kiện phát triển của xã hội, khuynh hướng giản dị hóa nghi thức an táng ngày càng được mọi người áp dụng.
Dưới đây là nghi thức chôn cất người thân theo tập quán Dân gian cổ, trình tự như sau:
Người thân mất →Thông báo cho con cháu biết→con cháu tập hợp, trải chiếu mới→đặt người chết lên chiếu→che đậy các trang thờ→khiêng đến gian chính→trình tổ tiên, con cháu khóc→con cháu thay đồ không mặc quần áo lòe loẹt→thay gối mới→bỏ vàng bạc vào miệng→đắp mền→cúng cơm phía chân người chết, đốt đèn, đốt giấy→cử người giữ xác, tiếp khách thăm hỏi, báo tang→mua quan tài, xem ngày giờ, chọn địa điểm chôn cất→lập chương trình lễ tang, đăng ký khai tử,thỉnh thầy làm đám→lau thân thể người chết→trang điểm, thay quần áo mới cho người chết theo địa vị tương thích, ăn đường đen mì sợi→kiểm tra quan tài, đốt giấy tiền trả nợ kho, nhét tiền vào hai bàn tay người chết→tiểu liệm quấn vải quanh thân người chết →sắp xếp đáy quan tài→thầy tụng kinh→đại liệm khiêng xác vào quan tài, bỏ đồ vật, quần áo xung quanh xác →đóng nắp quan tài→trét khằn quanh quan tài→trang trí chỗ đặt quan tài màn, trướng, đèn, bàn vong…→phát tang, thành phục con cháu mặc tang phục,niêm yết cáo phó→sắp xếp người, phẩm vật tiếp đãi khách→cử người luân phiên đại điện tiếp khách viếng→thời gian tang lễ qua→các nghi thức chuẩn bị động quan công điện lễ →gia điện lễ →động quan khải linh, phát dẫn→di quan→đến nơi an táng→trình Hậu Thổ tiến khoáng, điểm chủ, tế mộ →hạ huyệt→lắp huyệt→thỉnh vong về nhà khi vào cửa phải bước qua đống lửa→lập bàn thờ vong an sàng tắm rửa, ăn chè ngọt→cúng cơm hàng ngày→lễ khai mộ→tiến hành xây mộ→báo hiếu cúng cơm hàng ngày →tụng kinh cầu siêu làm tuần thất, trăm ngày, giáp năm, ba năm →đưa bài vị vào nhà thờ lớn hợp lô →tạ mã→tảo mộ hàng năm Thanh Minh →giỗ→cải táng nếu cần.
VIỆC CHÔN CẤT
Việc chôn cất đối với người Dân gian cổ là một phong tục có tính ổn định lâu đời. Phong tục ấy tổng hợp các phương diện địa lý, lịch sử, tập quán, luân lý …Phổ biến có các hình thức chôn cất người chết là: chôn dưới đất thổ táng, thiêu xác hỏa táng, táng treo sườn núi huyền quan táng, để trên mặt nước thủy diện táng
Thổ táng
Những phong tục ấy do điều kiện sinh hoạt của địa phương, nghề nghiệp sinh sống … tạo thành.
Tập tục đó là, khi có người chết, người nhà dùng quan tài bằng gỗ tẩn liệm thi thể, xong đi tìm một hốc núi nào đó, khoét một cái hang hầm rồi chôn quan tài xuống đó. Chôn xong, trước đầu người chết chỉ để một tấm đá tượng trưng chứ không làm mộ bia gì cả. Người ta gọi đó là “Phần”, “Sơn phần” hay “Phần đầu”. Đây là lần chôn cất thứ nhất.
Táng treo
Khoảng chừng mười năm sau, thân nhân tiến hành việc “bốc cốt”, cho vào một cái hủ tháp vàng kim tháp, tạm thời để bên cạnh chân núi. Nhà giàu có thì thuê mướn những nhà phong thủy giỏi, lên núi tìm long kiếm huyệt, mang hài cốt đến an táng tại đó, xây mộ lớn theo chỉ dẫn của thầy địa lý, làm bia mộ đầy đủ. Người ta gọi đó là “Mộ” hay “Địa” đầy đủ gọi là Phong thủy địa.
Kiêng kỵ[sửa]
Tang ma là việc đại sự, vì vậy cần phải tránh những điều sau để những điều xui xẻo khác sẽ không tiếp diễn:
*. Với những người bị chết đuối, khi cứu chữa kiêng để cha mẹ hay người thân thích đến gần vì nếu có mặt người thân thì chắc chắn vô phương cứu chữa.
*. Khi gặp người chết ngoài đường, kiêng đưa xác về nhà vì có âm khí sẽ không có lợi cho việc làm ăn, sinh sống của những người trong nhà.
Thân nhân người chết phải tổ chức tang lễ tại nơi chết hoặc dựng lán ngoài đồng để làm lễ. Người chết do tai nạn tàu xe, sông nước… thì phải cúng lễ trực tiếp nơi bị nạn.
*. Với những người treo cổ tự tử thì phải chém đứt dây mà không tháo dây vì mối oan nghiệt mới dứt, tránh bị họa chết.
*. Khi con cái mất trước cha mẹ thì cha mẹ kiêng đưa tang con vì con cái mất trước là nghịch cảnh, bất hiếu, gây nhiều đau thương. Cha mẹ có thể đau buồn mà ngất trên đường đi đưa ma, ảnh hưởng tính mạng nên phải làm vậy để vơi nỗi buồn, tránh trùng tang.
*. Khi chôn cất thì kiêng dùng quần áo hay đồ dùng của người còn sống cho người mất vì như vậy là người mất đã mang đi một phần của người sống, khiến người sống có thể bị ngớ ngẩn, hay quên. Đồng thời người sống cũng kiêng nằm giường thừa, mặc quần áo thừa, dùng đồ thừa của người chết để lại.
*. Khi khâm liệm, tránh để nước mắt rơi xuống vì con cháu sẽ làm ăn khó khăn và cũng tránh quỷ nhập tràng, vì vậy người khâm niệm không được khóc. Người chứng kiến dù thương xót người quá cố đến đâu cũng phải đứng xa một quãng để tránh nước mắt bị nhỏ vào thi hài.
*. Người dự đám tang chỉ mặc đồ đen trắng, tránh ăn mặc lố lăng, lòe loẹt, hở hang, không cười nói quá lớn, nô đùa gây ầm ĩ.
*. Con cháu phải canh giữ thi hài ngày đêm, tránh để chó, mèo hay vật nuôi di chuyển qua để tránh hiện tượng quỷ nhập tràng.
*. Ở những gia đình mà có người già mất, chập tối phải đóng cửa, kiêng trả lời nếu chưa nhận tiếng gọi người đứng ngoài cổng. Sở dĩ là do theo tín ngưỡng dân gian, người già mới mất còn quyến luyến con cháu, tối về gọi con cháu và sẽ bắt theo những ai thưa.
*. Người cao tuổi, phụ nữ có thai, trẻ em hoặc những ai bị chó dại cắn kiêng dự lễ khâm liệm, an táng và cải táng vì có thể bị nhiễm hơi lạnh từ thi thể người mất mà ốm bệnh. Những nhà có người già, trẻ nhỏ, phụ nữ có thai sống gần nhà gia đình có tang thì phải đặt lò than đốt vỏ bưởi và bồ kết để trừ uế khí.
Ngày tang lễ
Nghi lễ đối với người bình thường
Lúc hấp hối
Ai cũng mong muốn mình được ra đi thanh thản, nhẹ nhàng. Những người lâm trọng bệnh, biết rằng mình khó qua khỏi thì rất mong muốn được đón nhận cái chết. Cái chết đối với họ chính là sự giải thoát, chấm dứt mọi nỗi đau khổ mà họ phải chịu đựng. Người thân đều mong muốn người ốm nhanh chóng được giải thoát. Có gia đình lễ tổ tiên cho người ốm được ra đi nhẹ nhàng hoặc mời thầy cúng đến cúng bái, yểm bùa. Khi sắp mất, sự có mặt của người thân xung quanh chính là niềm an ủi lớn lao, khiến người ốm có thể nhắm mắt bình an, thanh thản. Những người theo các tôn giáo thì làm phép cầu nguyện của tôn giáo đó.
Con cháu người quá cố phải làm những nghi lễ sau:
*. Đưa người sắp mất sang phòng chính tẩm, hướng phía Đông.
*. Hỏi han xem người mất có dặn dò, trăng trối gì không, nguyện vọng chính của người sắp mất là gì?
*. Đặt tên thụy hiệu, hỏi xem người sắp mất đồng ý hay không?
*. Thay nhau túc trực bên cạnh.
*. Chuẩn bị mọi thứ để làm lễ mộc dục (tắm rửa) và khâm liệm, nhập quan.
*. Ghi nhớ thời gian người chết tắt thở, sau đó nắn chân tay thật thẳng và vuốt mắt cho người chết.
Người chủ tang và ban lễ tang
*. Người chủ tang và chủ phụ: Người chủ tang sẽ là con trai trưởng và con dâu trưởng. Người con trai trưởng chống gậy tre nếu là tang cha, gậy vông nếu là tang mẹ. Nếu là tang cha mà mẹ còn sống thì mẹ là chủ phụ. Nếu con trai trưởng mất trước thì cháu đích tôn thừa trọng (thay thế cha đã mất) là chủ tang. Những người chú đứng 2 bên chỉ là bồi tế vợ của người cháu là chủ phụ thay thế bà chồng hay mẹ chồng đã mất, các bà thím chỉ là những người phụ. Cháu đích tôn còn quá nhỏ, chưa chống gậy tạ được thì người con trai thứ hoặc người chú thứ hai vào thay thế, nhưng vẫn phải nhân danh cháu đích tôn mà lạy tạ.
*. Người hộ tang: Người hộ tang là người thay thế tang chủ và gia đình điều hành những công việc quan trọng trong lễ tang. Phải chọn người có tuổi, kinh nghiệm tốt, tháo vát, uy tín trong dòng họ, hướng dẫn những nghi lễ chính: mộc dục, phạm hàm, khâm liệm, nhập quan…
*. Người chấp sự: Là người thay thế cho người hộ tang cúng lễ, nếu người hộ tang biết cúng thì kiêm luôn. Người chấp sự cũng chăm lo những nghi lễ chính như trên. Phải chọn người có văn hóa (biết chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ…) có thể kiêm luôn việc viết văn tế, văn cúng, bài vị, cáo phó…
*. Người thu lễ: Là người thu lễ của khách khứa đến phúng viếng đến hết 3 ngày sau khi an táng. Người thu lễ tức trực bên ngoài, thu lễ của người đến viếng đặt lên bàn thờ, báo tang gia đến để bái tạ. Người thu lễ có trách nhiệm ghi đầy đủ danh sách người đem lễ đến để tang gia cảm ơn sau này, kiểm tra lễ vật khách đem đến. Phải chọn người thân tín.
*. Người chấp hiệu: Là người chỉ huy việc đưa quan tài ra xe hay lên kiệu, điều khiển việc đi đứng, nâng lên hạ xuống, sang trái sang phải… bằng hiệu lệnh hay bằng cây gậy gỗ chỉ huy đến khi hạ huyệt xong. Người chấp hiệu ngồi trên đại dư hoặc đi lùi trước quan tài để điều khiển.
Mộc dục
Lễ Mộc dục (tức là tắm gội) là lễ tắm rửa để người chết sạch bụi trần. Khi làm lễ này, đặt một con dao nhỏ, một vuông vải (khăn), một ít đất ở ông đồ rau, một nồi nước ngũ vị hương, một nồi nước nóng khác. Khi làm lễ mộc dục, quây màn xung quanh thật kín, tang chủ quỳ xuống khóc rồi cáo từ: “Nay xin tắm gội để sạch bụi trần”. Cha mất thì con trai vào tắm, mẹ mất thì con gái vào tắm. Lấy tấm vuông vải đắp trên ngũ vị, lau mặt, lau mình cho thật sạch sẽ rồi lấy lược chải tóc và lấy vải buộc tóc (nếu là tang mẹ), lấy khăn khác lau hai tay hai chân, cắt móng tay móng chân. Móng tay gói lại để phía trên quan tài, móng chân gói lại để phía dưới quan tài, mặc quần áo cho chỉnh, phủ một tờ giấy bản trên mặt. Dao, lược, thìa đem đi chôn xuống đất, rước thi thể đặt lên giường.
Sau một thời gian chưa nhập quan, đặt chiếc ghế con trên đầu người chết, đặt trên đó một bát cơm úp, một quả trứng luộc, dựng đôi đũa trên bát cơm và thắp hương. Có thể để thêm một con dao trên bụng nhằm mục đích đuổi tà ma ác quỷ đến quấy rối vong hồn.
Phạm hàm
Lấy ba nhúm gạo nếp sát cho sạch, ba đồng tiền mài thật sáng (nhà giàu thì ba miếng vàng sống, chín hạt châu trai). Tang chủ và người chấp sự quỳ, cáo từ rằng: “Nay xin phạn hàn, phục duy hâm nạp”. Người chấp sự lần lượt xướng: Sơ phạm hàm (lần thứ nhất), Tái phạm hàm (lần thứ hai), Tam phạm hàm (lần thứ ba cũng là lần cuối cùng). Tang chủ làm liên tục 3 lần, mỗi lần một nhúm gạo nếp và một đồng tiền tra vào miệng bên phải, bên trái và giữa. Làm xong thì bóp mồm lại, phủ giấy bản lên mặt như cũ.
Hiện nay, nhiều nơi đã bỏ tục trên, thay thế bằng một chiếc túi đựng tiền và ít gạo cùng với những đồ lặt vặt mà người chết hay dùng lúc còn sống.
Khâm liệm và nhập quan
Trước khi khâm liệm, đặt thi thể của người chết dưới đất một lúc để nguồn điện âm thoát hết ra ngoài, tránh hiện tượng quỷ nhập tràng(người chết đuổi theo và đứng song song với người sống, ngã xuống tức thì), đồng thời không cho chó mèo nhảy qua, tránh để giọt nước mắt hoặc chén rượu hắt vào xác chết. Sau đó, để kích thích người chết sống lại, thì người con cầm chiếc áo của người đã tắt thở, trèo lên nóc nhà chỗ cao nhất, hú ba lần “ba hồn bảy vía” nếu là tang cha hoặc “ba hồn chín vía” nếu là tang mẹ. Hú ba lần mà người chết không sống lại thì đành chịu lòng khâm liệm mà chưa đóng chốt áo quan vội.
Con cháu đứng sang hai bên quan tài, con trai bên trái, con gái bên phải. Người chấp sự lần lượt xướng: Tự lập (đứng gần vào), cử ai(khóc cả lên), quỳ. Người chấp sự cũng quỳ theo, cáo từ: “Nay được giờ lành, xin được khâm liệm nhập quan”. Sau đó lại lần lượt xướng tiếp: Phủ phục (lễ xuống), hưng (dậy), bình thân (đứng thẳng).
Con cháu đứng tránh sang hai bên, người giúp việc quay và đều cầm tạ quan nâng lên để đưa người vào cho êm ái, đặt cho chính giữa quan tài, nếu có hở chỗ nào cần lấy áo cũ của người vừa mất bổ khuyết cho kín, rồi gấp dưới lên đầu trước, bên trái rồi đến bên phải, trên đầu gấp sau cùng, sơn nẹp đóng kín lại. Nếu những quần áo người đang sống có mặc chung thì không nên bỏ vào áo quan. Để khâm liệm, dùng những thứ sau: Nhà giàu dùng vóc nhiễu, tơ, lụa; nhà bình thường dùng vải trắng may làm đại liệm (một mảnh dọc, năm mảnh ngang) hoặc tiểu liệm (một mảnh dọc, ba mảnh ngang). Ngày trước, quy định đại liệm hay tiểu liệm vì khổ vải nhỏ. Ngày nay, dùng vải khổ rộng, miễn kín chân, tay, đầu, gót là được. Xong xuôi thì gắn quan tài lại cho thật kỹ càng, đặt ở gian giữa. Nếu nhà có người bậc cao hơn người chết còn sống thì đặt sang gian bên trái hoặc bên phải của nhà.
Đặt linh sàng hoặc linh tọa
Sau khi nhập quan thì làm lễ thiết linh (tức đặt bàn thờ tang). Nhà hẹp thì đặt linh sàng, nhà rộng thì đặt linh tọa (tức bàn thờ người qua đời lúc chưa chôn cất; linh sàng là chỗ để linh hồn người chết ngự trên nơi đó chứng lễ của con cháu, kích cỡ nhỏ hơn; linh tọa là chỗ ngồi của linh hồn, đồng nghĩa như trên, kích cỡ lớn hơn). Vật phẩm con cháu dùng để cúng phải thật tinh khiết, hoa quả phải tươi và mới. Bên cạnh linh sàng, linh tọa đặt chậu nước để tang chủ rửa tay sách trước khi thắp hương, đặt đồ cúng lên.
Thành phục
Trong thời gian chưa chôn cất có Lễ triêu tịch điện: Buổi sáng dậy bưng khăn lược vào linh sàng, các con quỳ khóc ba tiếng rồi quấn màn lên cáo từ rằng: “Ngày đã sáng rồi xin rước linh bạch ra linh toạ (hoặc linh sàng)”. Sau đó rước hồn bạch ra đặt vào ỷ, vắt màn, dọn chăn gối, chiều tối lại rước linh bạch vào, đắp chăn thả chiếu, màn xuống. Thờ như lúc cha mẹ còn sống, chỉ lạy hai lạy (chỉ sau khi an táng, làm lễ thành phục xong mới lạy bốn lạy theo nghi lễ người chết).
Sau khi thiết linh, con cháu đều phải mặc đồ tang phục để cúng tế và đáp lễ khi khách khứa đến phúng viếng. Trước khi thành phục, nếu có khách đến thì người chủ tang chưa ra tiếp mà người hộ tang thay mặt tiếp khách và thông cảm với khách. Sau lễ thành phục mới là lễ chính thức phát tang, nổi kèn trống cho họ hàng, làng xóm đến phúng viếng. Khi thân bằng cố hữu đến phúng viếng, người chủ tang và người chủ phụ đứng cạnh linh sàng hoặc linh toạ và ngoảnh mặt về phía khách, hễ khách lạy hai lạy thì chủ lễ tạ lại một lạy. Khách vái cha mẹ mình ba vái thì vái tạ một vái. Người hộ tang có trách nhiệm tiếp trầu, nước, cỗ bàn cho người phúng viếng. Trước khi làm lễ chuyển cữu để chuẩn bị phát dẫn thì áo quan vẫn trở đầu vào trong, coi như lễ người sống, đọc văn cũng chưa dùng chữ Hiển thảo (cha) hay Hiển tỷ (mẹ) mà con vẫn dùng chữ Cố phụ (cha), Cố mẫu (mẹ). Nếu có con trai nào vắng mặt, chưa về kịp thì phải đặt áo, gậy, mũ lên bên cạnh hương án.
Năm hạng tang phục (ngũ phục)
Theo sách Thọ mai gia lễ:
Có năm hạng tang phục tuỳ theo quan hệ huyết thống và nghĩa tình phân biệt thân sơ.
Những đồ tang phục đó như sau:
*. Đại tang (trảm thôi và tề thôi; để tang ba năm):
*. Quần áo có sổ gấu gọi là trảm thôi: Con để tang cha hoặc con để tang mẹ khi cha đã mất.
*. Quần áo không sổ gấu gọi là tề thôi: Con để tang mẹ, vợ để tang chồng khi cha chưa mất (mẹ mất trước cha).
*. Thời hạn: 3 năm, đời sau giảm bớt còn 2 năm 3 tháng (sau lễ giỗ 2 năm, thêm 3 tháng dư ai).
*. Áo xô, khăn xô có hai giải sau lưng (gọi là khăn ngang): Nếu còn cha hoặc còn mẹ thì hai giải dài ngắn lệch nhau, nếu cả cha và mẹ đều đã mất thì hai giải bằng nhau.
*. Con trai chống gậy: Tang cha chống gậy tre vót tròn, tang mẹ chống gậy vông đẽo vuông.
*. Con trai trưởng mất trước thì cháu đích tôn thừa trọng (thay thế cho cha đã mất) đại tang ông bà nội thay thế cha.
*. Cơ niên (để tang một năm):
*. Cháu nội để tang ông bà nội.
*. Con riêng của vợ để tang bố dượng nếu bố dượng có công nuôi và ở cùng đến khi trưởng thành, nếu không ở cùng thì không tang.
*. Con để tang mẹ đẻ ra mình nhưng bị bố ruồng rẫy (xuất mẫu) hoặc cha chết, mẹ lấy chồng khác (giá mẫu).
*. Chồng để tang vợ cả có gậy, nếu cha mẹ còn sống thì không gậy.
*. Cháu để tang bác trai, bác gái, chú ruột, thím, mợ và cô ruột.
*. Anh chị em ruột để tang cho nhau (cùng cha khác mẹ cũng tang 1 năm, cùng mẹ khác cha thì tang 5 tháng).
*. Cha mẹ để tang con trai, con gái và con dâu cả, kể cả con đi làm con nuôi nhà người.
*. Chú, bác, thím, mợ, cô ruột để tang cho cháu (con anh em ruột).
*. Ông bà nội để tang cho cháu trưởng (đích tôn).
*. Đích mẫu, kế mẫu, từ mẫu tang các con chồng, thứ mẫu tang con mình và con chồng như nhau đều một năm. Tang con dâu cả cũng một năm.
*. Con dâu để tang dì ghẻ của chồng (tức vợ lẽ cha chồng).
*. Con rể để tang cha mẹ vợ (vợ chết đã láy vợ khác cũng vậy).
*. Nàng hầu để tang cha mẹ chồng, vợ cả của chồng, các con riêng chồng cũng như con riêng của mình (các họ hàng bàng thân bên nhà chồng đều không tang).
*. Đại công (để tang chín tháng):
*. Anh chị em con chú ruột, con bác ruột để tang cho nhau.
*. Cha mẹ để tang con dâu thứ hoặc con gái đã lấy chồng.
*. Chú, bác, thím, mợ, cô ruột để tang cháu (con gái đã xuất giá, con dâu của anh em ruột).
*. Cháu dâu để tang ông bà của chồng, chú, bác, thím ruột, hoặc cô ruột của chồng.
*. Mẹ để tang con dâu thứ và con gái riêng của chồng.
*. Con gái đã xuất giá để tang bác trai, bác gái, chú thím, cô ruột.
*. Tiểu công (để tang năm tháng):
*. Chắt để tang cụ nội, ngoại.
*. Cháu để tang anh chị em ruột của ông nội (ông bà bác, ông chú, bà thím, bà cô).
*. Con để tang vợ lẽ, nàng hầu của cha (nếu cha giao cho nuôi mình thì để tang 3 năm như mẹ đẻ).
*. Cháu để tang đường bá thúc phụ mẫu và đường cô (anh chị em con chú bác ruột của cha).
*. Anh chị em con chú, bác ruột để tang cho vợ của nhau.
*. Anh chị em chung mẹ khác cha để tang cho nhau (vợ con của anh chị em ấy thì không tang).
*. Chú bác ruột để tang cho cháu dâu (con dâu của anh em ruột).
*. Ông bà bác, ông chú, bà thím, bà cô để tang cho cháu (tức là cháu nội của anh em ruột).
*. Ông bà nội để tang cho vợ cháu đích tôn hoặc cháu gái xuất giá.
*. Cháu ngoại để tang ông bà ngoại và cậu ruột, dì ruột (anh chị em ruột của mẹ, kể cả đối với anh chị em ruột của đích mẫu, thứ mẫu, kế mẫu).
*. Cháu dâu để tang cô ruột của chồng.
*. Chị dâu, em dâu để tang anh chị em ruột của chồng và con của những người đó (tức là cháu gọi bằng bác, bằng thím, bằng mợ).
*. Ty ma (để tang ba tháng):
*. Chít để tang can (kỵ) nội.
*. Chắt để tang cụ nhà bác, nhà chú (tằng tổ bá thúc phụ mẫu và tằng tổ cô, tức là anh em ruột với cụ nội).
*. Cháu để tang bà cô đã lấy chồng (chị em ruột với ông nội).
*. Cháu để tang cô bá (chị em con chú bác ruột với bố).
*. Con riêng của vợ để tang bố dượng (nếu trước có ở cùng, sau mới về bên nội).
*. Con để tang nàng hầu của cha.
*. Con để tang bà vú (cho bú mớm).
*. Cháu để tang tộc bá thúc phụ mẫu (anh em cháu chú, cháu bác với cha).
*. Chồng để tang vợ lẽ, nàng hầu.
*. Anh chị em họ nội 5 đời để tang cho nhau.
*. Bố mẹ vợ để tang con rể.
*. Ông bà ngoại để tang cháu ngoại và cháu dâu ngoại.
*. Ông của chồng để tang cháu dâu.
*. Cụ để tang cho chắt nội.
*. Cháu để tang vợ cậu, chồng cô, chồng dì có cùng ở một nhà.
*. Anh chị em con cô ruột và bạn con dì ruột để tang cho nhau.
*. Cậu ruột để tang vợ của cháu trai
*. Cháu dâu để tang ông bà ngoại của chồng, cậu ruột, dì ruột chồng
*. Cháu dâu để tang các ông bà anh chị em ruột với ông nội chồng.
*. Chắt dâu để tang cụ nội của chồng.
*. Cụ để tang chắt nội trai gái.
*. Ông bà để tang các cháu gái của con nhà chú, nhà bác.
Chuyển cữu và yết cáo tổ tiên
Trước ngày phát dẫn thì có lễ yết cáo tổ tiên rằng sẽ có thân phụ hoặc thân mẫu về chầu tổ. Nếu không đưa được linh cữu thì chỉ cần rước hồn bạch đến nhà thờ họ. Hồn bạch không để trên bàn thờ mà phải để phía dưới. Xong lại rước hồn bạch về nhà, đặt lại lên linh sàng hoặc linh tọa.
Điếu văn
Điếu văn là văn bản được viết bởi người chấp sự hoặc một người có khả năng viết để đọc tại nhà tang lễ. Nội dung bài điếu văn gồm thân thế, sự nghiệp người mất. Điếu văn sẽ là người cao tuổi có vị thứ trong họ tộc với người qua đời đọc điếu văn, nếu tang lễ tại cơ quan thì người có chức vụ đọc. Khi đọc điếu văn, con cháu người quá cố đứng 2 bên quan tài, người đến dự đứng nghiêm hướng về người đọc điếu văn.
Phát dẫn và an táng
Lễ phát dẫn
Ngày phát dẫn là ngày đưa tang. Con trai trưởng phải chống gậy đi đầu tiên, con trai thứ thì chống gậy đi sau con trai trưởng. Tang cha thì chống gậy tre vót tròn, tang mẹ thì chống gậy vông đẽo vuông. Đầu tiên, có hai thần phương tướng làm bằng giấy đặt hai bên, dáng vẻ giữ tợn cầm đồ qua mâu để đuổi ma quỷ. Có hai người khiêng thể kỳ, đặt một bức mành vải trướng làm bằng vóc nhiễu, đề dòng chữ Hồ sơn vân ám (胡山云闇) nếu là tang cha hoặc Dĩ lĩnh vạn mê (已岭万迷) nếu là tang mẹ. Hai bên treo đèn lồng đề chức tước, húy hiệu người đã mất. Sau nữa đến minh tinh, được làm bằng vóc nhiễu, trên đề họ tên thụy hiệu người mất bằng phấn trắng treo lên cành tre. Tiếp đến là hương án lớn đặt giá hương, độc bình, đồ tam sự và mâm ngũ quả. Tiếp theo là thực án bày chiếc tam sinh và linh xa để rước hồn bạch, rồi theo sau là phường bát âm và những đồ minh khí, gồm có: Đèn làm bằng giấy, tấm biển đan triệu đề hai chữ trung tín (中囟) nếu là đàn ông hoặc trung tiết (中暬) nếu là đàn bà, đặt những bức trướng, câu đối viếng của con cháu và người phúng viếng sang hai bên.
Sau đó đến cờ công bố, đèn chứ á. Nhà phú quý thì có thêm nghị trượng sứ thần, đồ bộ lộ, áo mũ đại trào, chiêng, trống cà rùng… Nhà bình dân thì chỉ cần phường kèn trống thổi nhạc đưa ma. Cuối cùng là đại dư rước linh cữu, trên linh cữu đặt nhà táng bằng giấy. Thân nhân, theo thứ tự nhân sơ quy định, tang phục theo gia lễ, đều xếp hàng đi theo sau linh cữu hoặc ngồi hai bên linh cữu. Thời xưa có cái bạt bằng vải trắng che trên đầu gọi là bạch mạc. Người con trưởng đi trước hoặc kèm sau xe quan tài theo tục Cha đưa mẹ đón. Trên đường đi, rắc vàng giấy sang hai bên đoàn đưa tang làm lộ phí cho ma quỷ.
Nhà trạm
Đối với những nhà phú quý, đám tang giữa đường có dựng nhà trạm để dừng linh cữu mà điện tế. Nhà trạm lợp bằng lá hoặc cót, bên trong kết hoa, treo đèn, bài trí lịch sự. Lúc tế thì người phủng chủ ra đặt trên án, người đề chủ chấm nét bút trên đầu chữ chủi, sổ một nét. Nhà có lễ hậu tạ người đề chủ.
Lễ an táng (gọi là hạ huyệt)
Giờ hạ huyệt (下穴) thường chọn giờ hoàng đạo. Trước lúc hạ huyệt phải cúng thổ thần nơi hạ huyệt, đồ lễ gồm trầu rượu, đĩa xôi, vàng hương, thủ lợn hoặc chân giò… Tất cả mọi người cầm một nén hương, đi một vòng xung quanh huyệt thả một hòn đất xuống dưới, sau đó đắp mộ thành vòng rồi trồng cỏ. Đắp mộ xong, mọi người đứng vòng quanh mộ, người hộ tang, người chấp sự tiến hành lễ thành phần, tiếp đãi trà, thuốc lá cho người qua đường. Nếu đĩa dầu lạc và chén rượu đặt trên quan tài mà không bị đổ, người khiêng quan tài sẽ được tang gia thưởng tiền rất hậu. Kể từ ngày này, chủ nhà thắp hương cơm canh vào hai bữa chính hằng ngày cho đến hết 100 ngày thì dừng lại.
Lễ 3 ngày (tế ngu)
Sau 3 ngày chôn cất, con cháu sẽ đến mộ để sửa sang lại mộ phần, đắp lại mộ tròn, sửa soạn cỗ bàn để tiếp đãi họ hàng thân thuộc, khách khứa đến dự, gọi là lễ tế ngu (蔽虞). Con cháu chỉ lấy đất đắp vào những chỗ bị hở và khơi rãnh thoát nước, kiêng động cuốc hay chèo lên mộ vì làm thế mộ dễ bị sập trong thời gian áo quan và thi hài đang bị tan rữa. Việc viếng mộ ngày này không cần thiết phải đi đầy đủ con cháu tang gia mà chỉ cần vài ba người cũng được, nhưng bắt buộc phải có trưởng nam hay cháu đích tôn thừa trọng. Nếu trưởng nam hay cháu đích tôn thừa trọng có việc bận hay bị đau ốm thì phải nhờ người khác vào thay thế. Buổi lễ này tính theo âm lịch.
Lễ 49 ngày (chung thất)
Lễ cúng 49 ngày còn gọi là lễ chung thất (终七) hay tứ cửu (四九): Âm hồn sau khi chết phải trải qua tất cả là 7 lần phán xét, mỗi lần mất 7 ngày (tương đương 1 tuần), đi qua một điện lớn dưới âm ty, sau 7 tuần vong hồn người chết mới được siêu thoát. Tuần chung thất là tuần quan trọng, đưa linh hồn người chết được về mộ phần của mình.
Lễ 100 ngày (tốt khốc)
Khi người chết đã được 100 ngày là đến tuần tốt khốc (卒哭). Từ tuần này trở đi, con cháu người mất sẽ thôi không khóc nữa. Tuần tốt khốc thì con cháu cũng làm lễ để cúng và làm cỗ bàn mời họ hàng thân thuộc. Sau lễ trăm ngày, hằng năm con cháu lấy ngày chết là ngày làm giỗ.
Cải táng
Sau từ 3 đến 4 năm, người ta sẽ làm lễ Cát táng tức đem táng ở nơi khác. Vì người ta quan niệm rằng, trong thời gian hung táng thì người mất hay bị ma quỷ quấy nhiễu, sau khi cát táng thì mới không bị ma quỷ quấy nhiễu nữa. Hoạt động này nhiều nơi còn được gọi là bốc mộ, cát cải. Cải táng phải chọn một ngày thích hợp, không nên xung khắc với người mất. Trước khi cát táng, người ta sẽ cúng Thổ thần Thiên địa nơi đào mả lên, rồi lại cúng Thổ thần Thiên địa nơi sẽ đem chôn cất. Người ta sẽ dùng cuốc đào đất, lấy hài cốt người chết cho vào Tiểu nhỏ làm bằng sành), đem chôn ở vị trí khác. Sau đó sẽ xây mộ kiên cố.
VIỆC CẢI TÁNG
Sau khi chôn cất lần đầu từ năm đến mười năm, thi thể đã mục rữa hết phần da thịt, chỉ còn lại bộ xương, người ta chọn ngày tốt thường là vào mùa thu, tổ chức làm lễ “cải táng”. Đào huyệt lên, bốc hài cốt đặt theo thứ tự đầu, mình, tay chân. Dùng rượu trắng để lau chùi sạch sẽ xương cốt. Theo đúng thứ tự xương chân ở dưới dần lên đến đầu, mặt xếp vào trong một cái hủ gọi là “kim tháp” hay “kim anh”. Quá trình này gọi là “chấp cốt” nắm giữ xương. Kim tháp có chiều cao khoảng 80 cm, phần giữa rộng, đường kính 50 cm, miệng và đáy hẹp. Bỏ xương vào tháp xong, trên miệng dùng tấm ngói đậy kín lại. Lưu ý là việc cải táng này tránh những năm “đại sinh nhật” 61, 71 tuổi của người con trai trưởng. Tháp này được đặt tạm ở chân núi, bên phía mặt trời mọc, chờ rước thầy tìm được huyệt địa tốt rồi mới chôn và xây mộ chính thức. Lần này, khi chôn nhớ phải chừa phần trên của tháp ló lên khỏi mặt đất thường. Nhờ huyệt tốt mà con cháu mới được hưởng phúc lành.
Kim tháp 2
Sau khi chọn được huyệt địa tốt rồi, thầy phong thủy còn phải tiến hành một số động tác chuyên môn như: dùng la bàn chọn phương hướng, xác định sơn thủy …gọi là khai kim tỉnh, rồi mới chôn kim tháp xuống đó.
Thông thường thì mỗi huyệt chỉ chôn một kim tháp, đôi khi cũng có trường hợp chôn chung hai tháp của vợ chồng nam tả nữ hữu, hoặc cá biệt có nhà chôn hết cả thân tộc vào một huyệt. Đây gọi là “lần chôn cất thứ hai”.
Bốc cốt
Lúc đã chôn xong tục gọi là Phong mộ đỉnh hay Viên phần, người ta dùng những loại đá kết dính theo xưa, nay dùng xi-. măng để xây tiếp thành hình “móng ngựa”, trước thấp sau cao, mặt trước có tấm mộ bia. Loại đá làm mộ bia này có nhiều loại, một là dùng đá hoa cương tại địa phương để tạc khắc, hai là đá nham mặc từ Quảng Đông chở tới, hoặc các loại vân thạch từ tỉnh khác chuyển đến, cũng có chỗ lấy đá nhuyễn trộn xi măng mà đổ khuôn v.v…
*. Nội dung của bia thường là:
-. phần đầu ghi địa danh nơi chôn cất, có khi kèm theo hình ảnh.
-. phần giữa ghi họ tên người mất hiển khảo của ông và hiển tỷ của bà, năm sinh và ngày tháng năm mất.
Số chữ ghi trên mộ bia phải lưu ý thứ tự “sinh, lão, bệnh, tử” chỉ chọn sinh mà làm chứ không được tùy ý ghi bừa theo sở thích.
-. phần cuối ghi họ tên người đứng ra lập mộ, nếu là con cháu đông thì chỉ ghi người trưởng nam làm đại diện thôi. Ngày tháng năm lập mộ.
Những chi tiết này rất quan trọng cho việc truy tìm gia phả, lai lịch họ tộc hay lịch sử địa phương về sau, cho nên phải cố gắng ghi đầy đủ mới được.
Loại mộ địa này được gọi là “Phong Thủy Địa”. Bên cạnh mộ nam tả nữ hữu cách khoảng hai ba thước mét, người ta có đắp một gò đất nhỏ, cắm bia ghi là “Hậu Thổ” hoặc bia bằng đá, tức là Thần Thổ Địa sở tại, có nhiệm vụ bảo vệ mồ mã ở đó.
Dân gian tin rằng, linh hồn con người là “một cái gì” bất diệt. Con người có “ba hồn bảy vía” hợp lại mà thành người sống. Lúc chết, chỉ có bảy vía theo thi thể mà tan rã vào đất, còn ba hồn thì rời khỏi xác thân, bay về “một không gian nào đó”. Linh hồn này có khả năng phù hộ cho con cháu được bình yên phát đạt, nên người ta luôn luôn kính sợ.
Con người chưa có cách gì tiếp xúc và giải thích về “thế giới của người chết” một cách sáng tỏ, vã lại tâm lý ai ai cũng sợ chết, nên phát sinh ra những suy nghĩ, hành vi có tính chất “theo tốt tránh xấu” xu cát tỵ hung. Do đó, mới có những điều “nên và không nên” làm khi ma chay, gọi đó là lễ tục an táng người chết.
*. Sách “Luận Ngữ” nói: “Sống có cái lễ của sống, chết có cái lễ của chết. Người gọi là con hiếu thảo, phụng sự cha mẹ có ba điều quan trọng: cha mẹ còn sống thì phải nuôi dưỡng, cha mẹ lúc chết thì phải chôn cất và cúng giỗ.Nuôi nấng cha mẹ thì cốt ở chỗ làm cha mẹ vui lòng, chôn cất thì cốt ở chỗ buồn thương, cúng giỗ thì cốt ở chỗ kính trọng”.
Đạo lý này đã thấm sâu vào đầu óc của con cái nhiều đời, trở thành “tiêu chuẩn đạo đức con người”.
Tang lễ là dịp để con cái thể hiện tinh thần đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, bày tỏ tình cảm thương mến người thân. Những nghi thức đặt ra cốt là để con cháu thể hiện sự bi ai thống khổ trong tâm thức ra ngoài trong giờ phút biệt ly kẻ còn người mất, đồng thời cũng mang tính giáo dục cho người sống về đạo hiếu thảo của con người. còn tiếp >>>>>>
Chia sẻ bài viết:
LÊ CÔNG
0919.168.366
PHÚC THÀNH
0369.168.366
Một số cách an sao vòng Trường Sinh trong tử vi
TÍNH CÁCH, MẪU NGƯỜI, TRONG LÁ SỐ TỬ VI
7 nguyên tắc cơ bản sau cần phải xem kỹ trước khi bình giải một lá số Tử Vi
THẾ NÀO LÀ TUẾ PHÁ & NGŨ HOÀNG ĐẠI SÁT
BÍ QUYẾT SONG SƠN NGŨ HÀNH VÀ THẬP NHỊ THẦN ĐẠI PHÁP (TIÊU SA NẠP THỦY THEO THỦY PHÁP TRƯỜNG SINH)
Ý nghĩa của việc thờ bàn thờ Ông Địa
“BẢN GỐC” CỦA THƯỚC LỖ-BAN DÀNH CHO CÁC BẠN THẬT SỰ HAM MÊ PHONG THỦY !!!
LÊ LƯƠNG CÔNG
Trụ sở: Số 12, Trực Cát , Vĩnh Niệm, Lê Chân, Hải Phòng
Tel: 0919.168.366 - Hotline: 0919.168.366 - Email: nhadatcongminh@gmail.com
Copyright © 2019 https://leluongcong.com/