Kỳ Môn Độn Gíap
14/12/2020 - 11:10 PMLê Công 1603 Lượt xem

XEM LẠI QUYỀN 21 >>>

KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 22
Tổng ca 8 cửa (bát môn tổng ca)
Kỳ đến cửa Khai, lợi xuất hành,
Cửa Hưu, kiện cáo, tiến thư nhanh.
Cửa Sinh, nhập trạch và hôn thú,
Thương mà đòi nợ, có công lênh.
Đỗ nơi ẩn trốn và hang lấp,
Cửa Cảnh thịt xôi chè chén nhanh.
Cửa Tử đi săn và xuất trận,
Cửa Kinh, phục chúng, cầu mưu thành.
Môn bách, cung bách
Cung chế Môn gọi là Môn Bách. Môn chế Cung gọi là Cung Bách. Cung Bách gọi là chế. Cửa cát bị Bách thì việc cát không thành. Cửa hung bị Bách thì hung tai càng nặng.
Nguyệt kiến, 9 tinh và xuất hành
Kiến: Xế, Trừ: Âm, Mãn: La hầu.
Bình, Định: ngoại tham, Chấp: Thủy.
Phá: hành mộc, Nguy: Dương, Thành: Thổ.
Thâu: Tử (mầu tía), Khai: kim, Bế: Nguyệt bột (Bột: sao chổi)
Kiến, Thanh long đấy, dụng làm đầu (tốt nhất)
Trừ ấy Minh đường hoàng đạo cầu.
Mãn thuộc Thiên hình, Bình, Tước đỏ (Chu tước)
Định là Kim quỹ (tráp vàng), cát thần chầu.
Chấp là Thiên đức, ngày Hoàng đạo,
Phá: Bạch hổ, Nguy: Ngọc đường câu.
Thành ấy Thiên lao kiên cố giữ,
Thâu là Huyền vũ, gặp tâm sầu.
Khai là Hoàng đạo Tư mệnh tới,
Bế: móc câu (Câu trận) làm chẳng cứ đâu.
Hoàng đạo xuất hành thì đại cát,
Hành quân, chiến đấu, tắc lo âu.
Phạm phải Hình mà xuất quân tất thương. Phạm lục súc, chết chóc (Mãn là Thiên hình)
Phạm phải Thiên lao thì người thương, tặc bại vong, tài bạch không lợi (Thành là Thiên lao).
Phạm phải Huyền vũ thì mất tiền của, nô tỳ trốn chạy, gặp giặc cướp, thương thai (Thâu là Huyền vũ).
Phạm Thanh long, cha mẹ an hem ganh ghét nhau, chết, vào ngục, trốn chạy gặp cướp bóc (Kiến là Thanh long).
Phạm Chu tước thì hung, chết, đổ máu, mất tiền trên đất (Bình là Chu tước).
Phạm Bạch hổ, sửa sang Minh đường (Phá là Bạch hổ, Trừ là Minh đường).
Phạm Thiên lao, sửa sang Ngọc đường (Thành là Thiên lao, Nguy là Ngọc đường), tức nơi này thì trấn áp, nơi kia thì tiêu tai, rất có công.
Ngũ Tử Tư nói:
Khi đi xa, mọi việc không nên nán trọ ở Thiên đình (Tân), Thiên ngục (Canh), Thiên lao (Nhâm). Ba thần này mà qua trên thì rất hung.
Nên cưỡi Thanh long (Giáp), trải Bồng tinh (Ất), trăm ác đều không dậy.
Kỵ ngày gặp Đại kim cương
Khuê, Lâu, Dốc, Quỷ với Ngưu, Cang
Khiển tướng ra quân chớ vội vàng.
Đất khách quay về, đường trộm cắp,
Cầu mong tài lợi khó thêm mang.
Đi thuyền có thể lo thuyền đắm,
Buôn bán giao qua chẳng dễ dàng.
Đào giếng công toi, chẳng thấy nước,
Ra quan, nhận tước chịu nhỡ nhàng.
Hôn nhân thì chủ nhiều tai hại,
Chôn cất sinh linh có tổn thương.
Muốn hỏi cát, hung tinh nẻo ấy,
Cầu ở Thiên phù Bí mật kinh.
Tổng đoán số dịch
Ngọc sách Thiên nguyên, thành chí lý,
Chia Đinh, sai Giáp, Lạc thư ký.
Âm Dương biến hóa, ngược xuôi chiều,
Tùng vết, nhóm năm trên chín vị.
*Độn có ba tài: Thiên, Địa, Nhân,
Long, Hổ, Phong, Vân với quỷ thần.
Sinh Thổ, sinh Trung, phụ thần vị,
Tám quái bay trên tám cửa trần.
*Một Trung tạo hóa lộ thiên cơ,
Thượng đế lần hư, cất bước phi.
Trung để suy lường đường tới lánh,
Giầu thần hợp sóc bói thời kỳ.
Xuất hành tạo táng, làm trăm lợi,
Kim cổ, thời nào, ai biết hết.
Một ngàn tám chục, Hiên Viên chế,
Tử Phòng mười tám cục thần kỳ.
Trí tuệ thông thần nên hiển đạt,
Bốn mươi tám cách khó suy bì.
Ta nay theo cổ biên thành sách,
Số Dịch tinh thông đến nghĩa vi.
*Người sau không biết, đọc mà hay,
Rảo bước lên thềm đường lối dày.
Xung, Phụ, Cầm, Nhậm, Tâm tới cát,
Ba Kỳ thần nữa, tốt lành thay.
*Trực phù, Trực sử hiềm xung kích,
Khai Hưu Sinh là ba cửa cát.
Đại khái, ra vào Khí tiết sao?
Kỳ môn chôn cất vào Long huyệt.
*Mở nên, chém gỗ với đi buôn,
Động dụng làm gì hãy chọn phương.
Dùng đó, đừng ngờ, đừng ngoái cổ,
Chí thành, cảm ứng phúc vô cương.
Tam Kỳ đắc sử nên dùng đó,
Sáu Giáp mà trùng hay chẳng nhỏ.
Ất về Chó Ngựa, Bính Chuột, hầu,
Sáu Đinh nàng Ngọc cưỡi Rồng Hổ.
*Còn có Tam Kỳ du Lục Nghi,
Gọi là Ngọc nữ thủ môn phi.
Mậu Tý, Kỷ Mão và Canh Ngọ,
Bính Ngọ, Đinh Dậu, Ất Mão kỳ.
Lợi việc riêng tây, hòa hợp nẻo,
Cung đình yến tiệc cũng nên khi.
* Tam Kỳ nhập Mộ dùng làm chi
Giở việc giờ này có thể nguy.
Ngũ bất Ngộ thời càng đáng hận,
Gọi là Nhật Nguyệt tối âm u.
Là lúc Can giờ Khắc Can Nhật,
Trăm việc đều hung, chẳng được gì.
Thuận, nghịch Trực phù thông bảy thần,
Địa nơi ẩn nấp, Thiên dàn quân.
Thái âm, Lục hợp nơi về lánh,
Câu trận, Đằng xà, ruộng đất ganh.
Bạch hổ phương tây, thần chém giết,
Huyền vũ trộm cắp phỏng lần chân.
Thiên ất Lục Mậu khó mà gặp,
Gấp phải theo thần, hoãn kiếm môn.
*Thiên Tam môn, Tứ địa hộ,
Hỏi nhau phép ấy nơi nào đó.
Thái xung, Tiểu cát với Tòng Khôi,
Đó gọi Thiên môn, nơi xuất lộ.
Địa hộ: Trừ, Nguy, Định với Khai,
Đến việc, đường này thông lọt dễ.
*Thái âm, Lục hợp, Thái thường quân,
Là Địa tư môn, ba cát thần.
Thêm được Kỳ môn cùng chiếu đến,
Ra ngoài mở việc, dạ hân hân.
Thái xung, Thiên Mã là chân quý,
Có nạn theo đây mà lánh đi.
Ví gặp thời may cưỡi ngựa trời,
Hổ báo chôn chân khôn kịp ví.
*Tối cát kỳ môn với Thái âm,
Ba ban khó được cùng chiếu lâm.
Cung Phương nào hợp cũng là quý
Mọi việc làm ra sẽ toại tâm.
*Sáu Bính, Sinh môn trên sáu Mậu,
Thiên độn là đây, nên tới đậu.
Sáu Ất, Khai môn trên Kỷ bay,
Địa độn là đây, lợi ẩn giấu.
Hưu môn, Lục hợp, Đinh, Thái âm,
Nhân độn là đây, từng kết cấu.
Ba độn trên đây trăm việc hay,
Giấu ảnh, thu hình càng tốt sâu.
*Ất Tân là Bồng, Hưu Khảm thấy,
Long độn là tên, giữa nước quẫy.
Tân Ất hùm thiêng gặp cửa Sinh,
Gọi là Hổ độn, rừng cao nhảy.
Lục Ất trên Tân hợp cửa Hưu,
Hơi nước sinh phong, Phong độn kêu.
Lục Ất trên Tân, Sinh đến hợp,
Nguồn Cấn, đất Khôn, Long độn chiều.
*Sinh và Bính Nguyệt trên Cửu Thiên,
Thần độn nơi đây, để phúc duyên.
Bằng nay Ất Nhật trên Cửu địa,
Quỷ độn là đây, đạt ảo huyền.
*Lục nghi kích hình, giờ rất hung,
Trực phù hình xứ, với thời cùng.
Tý – Mão, Tuất – Mùi, Thân hiềm Hổ (Dần).
Thìn, Ngọ tự hình Thìn, Ngọ cung.
*Thời, Nhật, Môn, Tinh có Phục ngâm,
Hưu trên Hưu ấy, Bồng trên Bồng.
Tiền của chỉ nên đâu để đó,
Làm liều, tai hại đến sau lưng.
*Đến như Phản ngâm Tý trên Ngọ,
Càng ngại Môn, Phù xung đối đọ.
Hãy mở kho ra chẩn phát đi,
Ra quân, động súng thì xui xó.
Kỳ môn sao cát ví cùng lâm,
Miễn được hình tai, may mắn có.
*Cung khắc Môn hại, lại chiêu tiền,
Môn chế cung, cung hủy bách liền.
Cát môn bức bách nhiều tật bệnh,
Hung môn gặp bách, hung dấy lên.
*Bính là bột nghịch, Canh là cách,
Gặp cách không thông, Bột loạn nghịch.
Bính cưỡi Can Ngày với Trực phù,
Kỷ cương xáo trộn khôn ngăn trách.
Canh trên Bản Tuế, Nguyệt, Nhật, Thời,
Đều là Can Cách, sinh tai khích.
*Sáu Bính trên Canh, Huỳnh nhập Bạch,
Giặc đang muốn rút, thế nên được.
Sáu Canh trên Bính, bạch nhập huỳnh,
Tin giặc tới nơi, thế mạc trắc (không lường được).
Canh trên Trực phù, Thiên Ất phục,
Trực phù trên Canh, Thiên Ất phi.
Trên cung một ấy, chiến trong nội,
Hình cung một ấy, nước loạn thì.
Canh trên Quý ấy, Cách là Đại,
Trên Nhâm là Tiểu cách suy vì.
Trên Kỷ là Hình, đường cách trở,
Can ngày trên Canh, Phi can suy.
*Còn có một ban gọi cách “Thì”
Là khi Canh đến trên ba Kỳ.
Lúc này ví thấy xuất quân khứ,
Một ngựa, một xe, chẳng trở về.
*Sáu Quý trên Đinh, Xà yêu kiều,
Trong lòng bối rối, nỗi tâm tư.
Đinh trên Quý: Tước đầu giang đó,
Kiện cáo, gian ngoan đủ mọi chiều.
*Sáu Tân trên Ất, Hổ xướng cuồng,
Là ngại người thân bị tổn thương.
Sáu Ất trên Tân Long đào tẩu,
Tiền tài tiêu tán, dạ kinh hoàng.
*Long hồi thủ bởi Giáp trên Bính,
Trong dạ vui mừng như ý mong.
Bính trên Giáp gọi Điểu điệt huyệt,
Mọi việc đem làm được đại công.
*Động việc Thiên bàn là phía Khách,
Địa bàn yên tĩnh là Chủ vạch.
Xét kỹ Kỳ môn với Tinh Cung,
Cùng là Hình Khắc, cát hung quyết.
Nhật Nguyệt chia xem phương vượng suy,
Lại xem khí sắc áng mây ven.
Giả như Bồng ngự trên cung Chín,
Được tháng Thu Đông, vượng tướng truyền.
Ngày gặp Quý Nhâm và Hợi Tý
Khí đen phương Bắc, Khách đương lên.
Thiên Anh ví ngự trên cung một,
Phương Bắc, ngày Đông Chủ lợi hơn.
Tinh vị Kỳ môn suy phỏng thế,
Người với Thời Phương xét nét nên.
*Từ Dần đến Ngọ năm dương thì (giờ Dương),
Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu hợp nghi.
Chiến trận xuất hành thì Khách thắng,
Hôn nhân, khởi tạo, đổi rời khi.
*Từ Mùi đến Hợi năm giờ Âm,
Và Kỷ Canh Tân Nhâm Quý tầm.
Lợi Chủ, tập mưu, dự bị dụng,
Còn nên cầu đạo với đi ngầm.
*Mười Can, sáu Giáp là Chủ tông,
Trên dưới giao thừa khai hạp phân.(Khai là Mở, hạp là đóng)
Dương tinh trên một cung Khai, cát,
Âm tinh trên một cung hạp, hung.
Giáp Mạnh nên chiến, Trọng lợi Thủ,
Cung phương trên Quý cát tự hung.
Tiến lui, mở việc, bằng Thiên cục,
Tắc lối, âm mưu, địa tĩnh dùng.
*Ba kỳ mà thấy ở năm dương,
Thì nên làm Khách mới cao cường.
Ví ở năm âm Kỳ xuất hiện,
Lợi về phần Chủ, liệu tìm phương.
*Ba kỳ sâu kín diệu khôn đòi,
Âm nghịch nên sau, dương trước, xuôi.
Mỗi thời chia rõ Sơ, Trung, Mạt,
Phù đầu giữ trọn trước sau coi.
*Đức ất vãng lai, loáng tựa thần,
Đi thì rượu thịt, của tiền cần.
Tám cung hôn nhân, chuyển, hay cho Khách,
Chỉ ngại roi hình với giận dằn.
Nguyệt Kỳ sáu Bính gọi Thiên oai,
Khí lửa nung ..m, yên mọi nơi.
Ra chợ, vào quan, Tiên được gặp,
Nghe trông lo lắng, ngóng mừng vui.
Sáu Đinh, nàng ngọc Thái âm tinh,
Lui tới Minh u, cũng mặc tình.
Xin yết, buôn, hôn đều cát cả,
Mừng lo phân nửa lợi tư doanh.
Sáu Mậu, ba môn, hung chẳng khởi,
Cưỡi rồng muôn dặm tùy lui tới.
Ngựa đi không tiếng, Khách theo chân,
Buôn bán được tiền, chạy sợ hãi.
Kỷ là Lục hợp lợi cơ mưu,
Ẩn giấu như thần, trời cũng chiều.
Lui tới ra đi trăm việc lợi,
Kinh đi, hung lánh, lợi dân nhiều.
Sáu Canh, Thời gặp, tuyệt năm hồi,
Ví cưỡng mà đi tới ngục trời.
Buôn bán toi công, làm vật tổn,
Chỉ nên cố thủ là may thôi.
Sáu Tân ra gặp tử thi bầy,
Cưỡng việc, Thiên đình phạt tới tay.
Quan, Bệnh, Buôn, Hôn đều trở ngại,
Tự tìm lợi quyết, tội liền ngay.
Nhâm thực Thiên lao, cưỡng việc dùng,
Mong che, lợi lấp, trốn thì vong.
Bệnh thì thăng giáng thêm hen suyễn,
Quan lại cừu thù, trăm việc hung.
Quý tàng, xuất nhập, mọi ưu hung,
Lợi việc tìm Tiên, lợi trốn trong.
Ẩn tích giấu hình ai thấy được,
Bệnh thêm trầm trọng, ngày mung lung.
Thi quyết 9 tinh cát hung
Thiên Bồng:
Thiên bồng mọi việc lợi Thu Đông
Kiện cáo, yên bờ, Xuân hạ công.
Dựng gả không hay, thay đổi dở,
Vào quan lối hiểm, cửa nhà hung.
Bán buôn, chôn cất, làm đều bỉ,
Có được Kỳ Môn mới tạm thông.
Thiên nhậm:
Kìa sao Thiên nhậm thấy uy nghi,
Trăm việc cầu mưu lợi bốn thì.
Tạo táng, vào quan và thỉnh yết,
Đi buôn, dựng gả với rời đi.
Ngoài biên cũng tốt khí thần vượng,
Lai phát cơ duyên, Khách gặp nguy.
Thiên xung:
Thiên xung báo oán, sân xuân phong,
Muôn dặm oai phong, đởm khí hung.
Không lợi Thu Đông, Xuân Hạ thắng,
Vào quan, buôn bán việc long đong.
Hôn nhân, chôn cất, xây, sinh khó,
Chờ đợi Xuân về, muôn việc thông.
Thiên Phụ:
Thiên Phụ tu thân, lợi tạo doanh,
Xuân hè chinh phạt nước non bình.
Tội hình cũng được trời tha bổng,
Tiễn xuất vào quan, công việc thành.
Giá thú đông con, buôn lắm lợi,
Đổi rời, yết kiến thì vô tình.
Thiên Anh:
Thiên Anh sao ấy thực loanh quanh,
Yến tiệc, đi xa, thú vị trù.
Chôn cất, vào tu, hôn thú tốt,
Xây nhà dựng cửa lại không chu.
Chủ nên cẩn thận, dừng nên Khách,
Khách ví chưa công, nguy có cơ.
Thiên nhuế:
Nhuế tinh vào đạo kết giao nên,
Giờ việc, đi chinh chớ tự quyền.
Trộm cắp, sợ lo, thương trẻ nhỏ,
Tai hình, tù ngục, việc quan liền.
Xuân Hè hung lắm, Thu Đông cát,
Ví được Kỳ môn cũng chẳng hơn.
Thiên Cầm:
Thiên Cầm đóng giữa bốn trời thông,
Nói lớn ăn to, có đại công.
Hoạt động nên dung mưu trả phục,
Tế thần cảm ứng việc quan xong.
Hôn nhân buôn bán và xây cất,
Thêm có Kỳ Môn phúc đỏ hồng.
Thiên Trụ:
Thiên Trụ trên non, xây cất lành,
Tế thần, giá thú, việc thông hanh.
Giấu hình, giữ cẩn là hơn cả,
Rời đổi, đi chinh phải thụ hình.
Các việc doanh mưu đều xấu cả,
Cưỡng làm, Chủ hẳn bị thương kích.
Thiên Tâm:
Thiên tâm mầu nhiệm đạo thần tiên,
Luyện thuốc, cầu trên, mọi việc nên.
Giá thú, vào quan, cùng đổi chuyển,
Đi chinh, chôn cất, tế cầu yên.
Thu đông thì cát, Xuân Hè xấu,
Quân tử thì hay, dở tiểu nhân.
Thi quyết 8 môn cát hung
Cửa hưu:
Cửa hưu chín chín khí đầy nhà,
Con cháu giầu sang đất cát đa.
Tế lễ, kinh doanh, nhà đến ở,
Phó quan, rời đổi tốt đều hòa.
Đẻ lành, lánh kín, người hưng thịnh,
Bắc vượng ngày Đông, sáu một qua.
Nam Bắc hôn nhân, quen thuộc cả,
Lại qua sáu súc (giống nuôi), trật quan gia.
Cửa Sinh:
Cửa Sinh tám tám, khí đây sao,
Hung sát đều hàng, Thổ đắp cao.
Đợi gái mang tiền, người gửi vật,
Từ nay phú quý, cháu con trào.
Ba năm, định có sinh con quý,
Đi lại ngoài châu, tiền của vào.
Giá thú, gieo mầm và dựng đổi,
Tiêu tai, phát phúc lạ lùng sao.
Cửa Thương:
Cửa Thương khí đoản, số ba ba,
Dần Mão vượng phương, âm Dốc pha.
Săn lưới, đi chinh, đòi lấy nợ,
Còn hay cờ bạc đuổi người qua.
Quant ư, cãi cọ, tang chồng chất,
Sáu súc toi luôn, trộm cắp sà.
Chồng vợ choảng nhau, còn mắt bệnh,
Ba tuần đẻ nạn, họa đào pha.
Tuổi tên chết mất và phong chứng,
Hổ rắn thương người, ở khó qua.
Cửa Đỗ:
Đỗ môn bốn bốn, ấy sao hung,
Tính mộc, phương nghiêng Dần Mão đông.
Đóng, dắt, ngăn dòng, nhiều lấp liếm,
Đuổi tà, đinh trộm, móc câu tròng.
Đi vong, trốn khó, thôi mong muốn,
Ẩn nấp, che thân, kín đáo vùng.
Đuổi mạnh, đi xa, thì lẽ đúng,
Riêng tư có thể giữ lâu cùng.
Những khi động dụng phòng quân trộm,
Tài tán, quan tư, ôn dịch xông.
Sét đánh, rắn thương, người ghẻ lở,
Nhà siêu, kho cháy, lại người vong.
Cửa Cảnh:
Cảnh môn bẩy bẩy tía hồng quân,
Tị Ngọ vượng Nam, kết Tuất Dần.
Sai sử, đưa thư, nguy giải ách,
Cầu mưu, tu tạo, yết cầu thân.
Cất chôn, dựng gả, lành trong việc,
Cấp thưởng dùng người như cánh chân.
Hiến kế, cầu danh, gần bệ ngọc,
Kén tài, khoa cử, nổi danh văn.
Cửa tử:
Cửa Tử hai hai, tinh ngược ác,
Cấn Khôn Mậu Kỷ là phương được.
Lưới săn, giết chóc, phương này nên,
Tống táng, viếng tang thì cũng thích.
Xây dựng lo trên với kẻ bằng,
Tang trùng kẻ chết nhiều ngang ngược.
Cầu mong không lợi, chẳng nên cầu,
Động, thấy thua toi, quan mất chức.
Cửa Kinh:
Cửa Kinh không hóa khí là ngược,
Vượng ở Canh Tân Thân Dậu cước.
Vó lưới chăng cao, tụng ngục chờ,
Cửa công, hình kích, đều theo bước.
Trốn đi, lừa bắt, đều có công,
Bán chợ, tu doanh, thua lỗ trước.
Kiện tụng, kinh hoàng, tật dịch hưng,
Bại tù, quân giặc, chó dê chết.
Cửa Khai:
Cửa Khai sáu sáu khí đầy phè,
Yết kiến, cầu mưu, lợi lộc ghê.
Dựng cửa, xây nhà, quan chức tiến,
Ngoài về tiền lụa ngựa trâu dê.
Mật ong hầm chứa, hoạch phát tài,
Con cháu giàu sang, danh lợi đề.
Thân Dậu Canh Tân, Thu nguyệt vượng,
Bán buôn, sản xuất lợi Thu về.
Kỳ môn 9 tinh ngày
Lại còn Thái ất chín tinh vị,
Đông chí từ Cấn, Khôn Hạ chí.
Khởi từ Giáp Tý, thuận nghịch hành,
Bản nhật tới cung Thái ất ký.
Thái ất cầu tài vạn sự thông,
Nhiếp đề, đâm đánh náo ồn trông.
Hiên viên xuất nhập nhiều kinh hãi,
Phạm phải Chiêu dao máu đổ hồng
Ví được Thiên phù săn bắn lợi,
Thanh long kiếm lợi, hỷ trùng trùng.
Hàm trì đưa đến quan nha hỏi,
Gặp Thái âm tái ẩn chất chồng (ám tài).
Thiên Ất quý nhân nhiều rượu thịt,
Chín tinh ứng nghiệm rất linh thông.
ĐÌNH ĐÌNH – BẠCH GIAN
Trên Trời rất quý là Đình Đình. Nên tựa nơi đây kích mặt xung.
Phép tìm Đình Đình:
Nguyệt tướng trên thời Thần hậu đó (Đình đình đây)
Sinh thần, tựa hướng một ban cùng.
Trên trời thần hảo Bách gian vị,
Cách ở Dần Thân, hợp Tị Hợi (do đình đình thấy Bạch gian).
CÔ – HƯ
Nguyệt tướng trên Thời câu Mạnh thần
Hợi Dần Thân Tị hợp Mạnh đề.
Trong đó Cô đều Nhâm Quý phương,
Cung đối phương là Hư đóng đó.
Tựa Cô, Kích Hư, Hư dụng gian,
Một bà địch nổi trăm ông đó.
XEM TIẾP QUYỂN 23 >>>


Tin liên quan

Chia sẻ bài viết: 



Bình luận:

Hỗ trợ trực tuyến

LÊ CÔNG

0919.168.366

Nhà đất bán theo tỉnh thành
Nhà đất cho thuê theo tỉnh thành
Kinh Dịch
Tử vi
Huyền không Phi Tinh
Văn Hóa_Tín Ngưỡng
Thước lỗ Ban
Xen ngày tốt
Kỳ Môn Độn Gíap
TIN NỔI BẬT

LÊ LƯƠNG CÔNG

Trụ sở: Số 12, Trực Cát , Vĩnh Niệm, Lê Chân, Hải Phòng

Tel: 0919.168.366 - Hotline: 0919.168.366 - Email: nhadatcongminh@gmail.com

Copyright © 2019 https://leluongcong.com/