Văn Hóa_Tín Ngưỡng
27/11/2020 - 3:32 PMLê Công 826 Lượt xem

GIỚI THIỆU VỀ ĐẠO MẪU VIỆT NAM

Giới Thiệu Về Đạo Mẫu Việt Nam NHỮNG ĐIỀU CƠ BẢN VỀ ĐẠO MẪU 1. Tứ phủ Là bốn phủ gồm thiên phủ, địa phủ, thoải phủ, nhạc phủ. Thiên phủ (trên trời) gồm 3 cõi vô sắc giới, sắc giới, dục giới Cõi vô sắc giới là cõi tối thượng của thiên phủ, hoàn toàn thanh tịnh. Cõi sắc giới cai quản về vật chất Cõi dục giới cai quản về nòi giống, tình dục.

Đạo Mẫu là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam thờ các nữ thần (thường gọi là các Thánh Mẫu). Đạo Mẫu là một phần quan trọng trong hệ thống tín ngưỡng dân gian và bản sắc dân tộc của Việt Nam
Nguồn gốc lịch sử của đạo Mẫu không được ghi lại rõ ràng trong sách vở. Có người cho rằng nó có nguồn gốc từ thời tiền sử, khi người Việt thờ các thần linh thiên nhiên, các thần linh này được kết hợp lại trong khái niệm Thánh Mẫu hay Nữ thần Mẹ. Theo thời gian, khái niệm Thánh Mẫu được mở rộng để bao hàm cả các nữ anh hùng trong dân gian – những người phụ nữ có thật nổi lên trong lịch sử với vai trò người bảo hộ hoặc trị bệnh. Những nhân vật lịch sử này được kính trọng, tôn thờ, và cuối cùng được thần thánh hóa để thành một trong các hiện thân của Thánh Mẫu.
Các vị thần trong đạo Mẫu phản ánh các phẩm chất của một người Mẹ vừa thần thánh lại vừa con người. Đạo Mẫu không chú trọng vào cuộc sống sau khi chết, nó quan tâm đến cuộc sống hiện tại và câu hỏi làm thế nào để người ta có thể đạt được một cuộc sống hạnh phúc và đầy đủ trên trần gian.

Trong tín ngưỡng dân dã của người Việt Nam, việc tôn thờ Nữ thần, thờ Mẫu là một hiện tượng khá phổ biến và có căn cỗi lịch sử và xã hội sâu xa.
Tuy đều là sự tôn sùng các thần linh nữ tính, nhưng giữa thờ Nữ thần với thờ Mẫu và Tam toà Thánh Mẫu không hoàn toàn đồng nhất.
Tôn thờ Nữ Thần
Từ rất lâu đời, ở nước ta Nữ Thần đã được nhân dân tôn vinh và thờ cúng. Người xưa cũng đã từng tập hợp các vị tiên có nguồn gốc thuần Việt , thì trong tổng số 27 vị, đã có 14 là Tiên nữ.
Trong truyền thuyết Nữ thần Mặt Trời và Nữ thần Mặt Trăng đã soi sáng và sởi ấm cho mặt đất, tạo lập nên vũ trụ.
Huyền thoại về Bà Nữ Oa đội đá vá trời. Các nữ thần Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Phong, Pháp Điện tạo ra mây, gió , sấm chớp…
Sinh thành ra dân tộc Việt Nam có Mẹ Âu Cơ đẻ ra một bọc trứng, nở thành 100 người con.
Các bà Mẹ cũng là các vị thần sáng tạo ra văn hoá và các giá trị văn hoá, là tổ của nhiều ngành nghề truyền thống như Mẹ Lúa, Mẹ Mía, Mẹ Lửa…
Nhiều Nữ thần là các danh tướng anh hùng ngoài trận mạc, là những nhân tài xây dựng đất nước như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ỷ Lan, Bùi Thị Xuân…
Các vị Nữ thần từ bao đời nay được nhân dân tôn làm Thánh , Thần, được triều đình sắc phong thành các vị Thần, Thành Hoàng của nhiều làng.
Đạo Mẫu có các nghi lễ tổ chức theo Âm lịch với các tín đồ và nhiều người đi lễ tham gia. Các nghi thức hành lễ không được đào tạo chính thức mà chủ yếu được truyền khẩu từ đời này qua đời khác. Nghi lễ phổ biến nhất là lên đồng (hay còn gọi là hầu bóng). Trong nghi lễ này, người ta tin rằng linh hồn của các vị thần sẽ nhập vào người lên đồng, linh hồn này được vời đến để nghe lời cầu nguyện của người đi lễ. Trong các nghi lễ, phụ nữ thường đóng vai trò chính, người lên đồng cũng thường là phụ nữ (bà đồng), đôi khi mới do nam giới đảm nhận (ông đồng).
Các giá đồng (các điệu múa linh thiêng) là một phần quan trọng của nghi lễ. Có 72 giá đồng, bao gồm giá các quan lớn, giá các cậu, giá chầu bà, giá các cô,… Trong buổi lễ, các giá đồng được biểu diễn cùng với hát văn (hay chầu văn). Hát văn là một thể loại hát nói (vừa hát vừa nói). Hát văn do người đồng biểu diễn cùng với dàn nhạc cung văn. Người ta nói rằng, chầu văn tạo nên một khung cảnh và âm nhạc tâm linh để giúp cho người đồng nhập vào vai mới và gắn kết với những con người và nơi chốn ở bên ngoài thế giới địa phương của họ.

Thờ Mẫu
Tục thờ Mẫu và Tam toà Thánh Mẫu có quan hệ mật thiết với tục thờ Nữ thần
Mẫu là Nữ thần nhưng không phải tất cả các nữ thần đều là Mẫu, mà chỉ có một số nữ thần được tôn vinh là Mẫu.
Danh từ Mẫu là gốc Hán Việt, còn thuần Việt gọi là Mẹ. Nghĩa ban đầu, Mẫu hay Mẹ đều để chỉ người phụ nữ đã sinh ra một người nào đó, là tiếng xưng của người con đối với người sinh ra mình.
Ngoài ý nghĩa xưng hô thông thường đó, từ Mẫu và Mẹ có ý nghĩa rộng rãi tôn vinh những bà Mẹ chung của mọi người.
Tín ngưỡng thờ Mẫu chứa đựng những nhân tố về một hệ thống vũ trụ luận nguyên sơ, thể hiện một ý thức nhân sinh, ý thức cội nguồn, dân tộc, lòng yêu nước đã được thiêng liêng hoá mà Mẫu là biểu tượng cao nhất.
Đạo Mẫu tiếp thu những ảnh hưởng của tục thờ cúng tổ tiên,một tín ngưỡng có vai trò quan trọng hàng đầu trong tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam.
Trong quá trình đạo Phật du nhập vào nước ta và một bộ phận quan trọng của nó đã phát triển theo khuynh hướng dân gian hoá, giữa đạo Phật và đạo Mẫu có sự thâm nhập và tiếp thu ảnh hưởng lẫn nhau khá sâu sắc.
Điều dễ nhận biết là ở hầu hết các ngôi chùa hiện nay ở nông thôn đều có điện thờ Mẫu. Trong đó phổ biến nhất là dạng “ tiền Phật hậu Mẫu “
,phía trước thờ Phật ,phía sau thờ Mẫu.
Tam Toà Thánh Mẫu
Chúng ta thấy trong những điiện thờ Mẫu có một hệ thống được thờ như sau:
Trên cao nhất của thượng điện là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế.. Tuy vậy, ít nơi thờ. Vì đúng lẽ chỉ có những vị tiên trên thượng giới mới được thờ Thượng đế.
Tiếp đến là thờ Tam Toà Thánh Mẫu ( Mẫu Tam phủ, Mẫu tứ phủ)
Mẫu là quyền năng sáng tạo vũ trụ duy nhất và hoá thân thành Tam vị , Tứ vị cai quản các cõi các miềm khác nhau của vũ trụ: Mẫu Thiên,Mẫu Địa, Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Ngàn.
Thường chúng ta thấy Tam toà thánh mẫu trong các điiện thờ:

Mẫu Thượng Thiên hay còn gọi là Mẫu Cửu Trùng (Cửu Thiên Huyền Nữ) mặc áo đỏ, ngồi chính giữa.Sau này một số điện thờ Mẫu, nơi chính giữa thờ Mẫu Liễu Hạnh.
Mẫu Thượng Thiên sáng tạo bầu trời và làm chủ quyền năng mây, gió ,sấm, chớp…
Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện vào khoảng đời hậu Lê, nhưng nhanh chóng trở thành vị Thần chủ của Đạo Mẫu Việt Nam và được tôn vinh với tư cách là Mẫu Thượng Thiên, được thờ ở vị trí trung tâm, mặc trang phục màu đỏ.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh được cho là công chúa của Ngọc Hoàng Thượng đế, do lỡ tay làm vỡ chén ngọc mà bị đày xuống trần làm con gái nhà họ Lê (ở nơi ngày nay thuộc tỉnh Nam Định) vào năm 1557. Dưới trần, bà có cuộc sống ngắn ngủi, lấy chồng và sinh con năm 18 tuổi và chết năm 21 tuổi. Do bà yêu cuộc sống trần tục nên Ngọc Hoàng cho bà tái sinh lần nữa. Trong kiếp mới, bà du ngoạn khắp đất nước, thưởng ngoạn phong cảnh thiên nhiên, gặp gỡ nhiều người. Bà thực hiện nhiều phép mầu, giúp dân chống quân xâm lược. Bà trở thành một lãnh tụ của nhân dân và thậm chí bà còn tranh đấu với vua chúa. Do đức hạnh của bà, nhân dân đã lập đền thờ bà (Đền Sòng tỉnh Thanh Hóa). Bà đã được thánh hóa và trở thành một vị Thánh Mẫu quan trọng nhất và một hình ảnh mẫu mực cho phụ nữ Việt Nam.
Tại làng Tây Hồ -Hà Nội có Phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh, dựng trên doi đất trông ra Hồ Tây,, cảnh đẹp , gió lộng từ ba phía, ngoài ra còn có những đền thờ nổi tiếng ở nhiều nơi như Phủ Giầy, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, đền Sòng, Phố Cát- Thanh Hoá…
Mẫu Thượng Ngàn là hoá thân Thánh Mẫu toàn năng trông coi miền rừng núi, ngồi bên trái , mặc áo xanh.
Các đền thờ Mẫu Thượng Ngàn có ở nhiều nơi, nhưng có hai nơi thờ phụng chính được nhiều người biết đến là ở Suối Mỡ (Bắc Giang) và Bắc Lệ ( Lạng Sơn).
Đền thờ Mẫu Thượng Ngàn ở Suối Mỡ thờ Mỵ Nương Quế Hoa, con gái Vua Hùng.
Đền thờ Mẫu Thượng Ngàn ở Bắc Lệ thờ công chúa La Bình, con gái đức Thánh Tản và Ngọc Hoa.
Mẫu Thoải (Mẫu Thuỷ) là vị Thánh trị vì vùng sông nước, xuất thân từ dòng dõi Long Vương, liên quan đến thuỷ tổ dân tộc Việt .ngồi bên phải, mặc trang phục màu trắng.
Mẫu Địa là vị thánh trông coi đất đai, mặc áo màu vàng.
Ngũ vị Quan Lớn
Sau hàng Mẫu là Ngũ Vị Quan Lớn, gọi tên từ Quan Đệ Nhất đến Quan Đệ Ngũ. Các vị đều mặc võ quan, mang kiếm hay kích màu sắc trang phục Thoải Phủ màu trắng, Thiên Phủ màu đỏ, Nhạc Phủ màu xanh, Địa Phủ màu vàng.
Các vị Quan lờn đều có nguồn gốc là thiên thần, vâng mệnh trời xuống giúp dân lành.
Nhưng cũng có nơi gắn các vị Quan lớn với các Nhân thần, những vị tướng có công với nước.
-Quan Đệ Nhất quyền cai Thiên Phủ trên trời, theo thần thoại là thần làm mưa làm gió, và cũng là Quan Lớn ở trong cung điện Ngọc Hoàng. Mặc bào mầu đỏ.
-Quan Đệ Nhị (Quan Giám Sát) ngày cúng của Đức Giám Sát là Âm Lịch mùng Ba tháng Ba. Châu văn ràng: Quyền cai rừng núi Lâm Cung, lên rừng suống biển tâu về Bát Hải Long Vương. Lúc đánh trận cho nhà vua thánh, Ông Quan là vị giám sát trước để đánh thuận xông pha. Mặc bào mầu xanh lá cây. Lúc lên giá này, ông cầm khăn phủ diện để minh giám hoàn cảnh.
-Quan Đệ Tam (Quan Tam Phủ) là con vua Bát Hải Long Vương, ra trận cầm đối đao vệ dân hộ quốc. Mặc bào mầu trắng. Lúc lên giá này, ông cầm đôi bạch kiếm đi xông pha quỉ thế tà giới.
-Quan Đệ Tứ (Quan Khâm Sai) là một ông quan Địa Linh quyền cai đất bằng. Ông có trách nhiệm đi khâm sai các vùng các dân, giữ an lành của nước Việt. Mặc bào mầu vàng.
-Quan Đệ Ngũ (Quan Tuần Tranh) là một ông Quan anh hùng hào kiệt có kể là tướng đi tuần ở Sông Tranh. Mặc bào mầu xanh biển. Lúc lên giá này, ông cầm cái thanh long đao to như của ông Quan Công của thời Tam Quốc.
Tứ Vị Thánh Bà hay Tứ Vị Chầu Bà được coi như hoá thân , phục vụ trực tiếp của Tứ Vị Thánh Mẫu
Tứ Phủ Chầu Bà (四府十二位英靈公主)
-Chầu Đệ Nhất (Thiên Phủ)
-Chầu Đệ Nhị (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Ngôi Kiều Công Chúa
-Chầu Đệ Tam (Thoải Phủ). Danh hiệu: Thuỷ Điện Công Chúa
-Chầu Thác Bờ (Thoải Phủ & Nhạc Phủ) Có người hầu là giá thứ ba, tức là Chầu Đệ Tam, Bà chúa Thác Bờ
-Chầu Đệ Tứ (Địa Phủ). Danh hiệu: Chiêu Dung Công Chúa
Đình Cốc Thượng là nơi tôn thờ Chiêu Dung công chúa Lý Thị Ngọc Ba, đã có công với dân, với nước. Bà đã cùng Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh tan quân xâm lược Nam Hán phương Bắc, đem lại thái bình cho dân tộc vào thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên (năm 40)
-Chầu Năm (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Suối Lân Công Chúa
-Chầu Ngũ Phương Có người hầu giá này thay vao Chầu Năm, tức là Chúa Ngũ Hành Ngũ Phương
-Chầu Lục (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Lục Cung Công Chúa
-Chầu Bẩy (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Tân La Công Chúa
-Chầu Tám (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Nữ Tướng Bát Nàn
Bà họ Vũ, ở làng Phượng Lâu, huyện Kim Động, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Thân phụ của bà là thầy thuốc làm nhiều việc phước đức. Bà nổi tiếng là phụ nữ xinh đẹp và giỏi võ nghệ.
-Chầu Chín Cửu Tỉnh ở Bỉm Sơn Thanh Hoá
-Chầu Mười(Nhạc Phủ). Danh hiệu: Nữ Tướng Đồng Mỏ Chi Lăng
-Chầu Mười Một
-Chầu Bé (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Bắc Lệ Công Chúa
Dưới hàng Chầu là hàng các ông Hoàng, được gọi theo thứ tự từ Ông Hoàng đệ Nhất đến ông Hoàng Mười.
Thập Vị Thủy Tế (十位八海龍兒皇子王爺)
-Ông Hoàng Cả (Thiên Phủ). Danh hiệu: Ông Hoàng Quận/Lê Lợi
-Ông Hoàng Đôi (Nhạc Phủ)
-Ông Hoàng Bơ (Thoải Phủ)
-Ông Hoàng Đệ Tứ (Địa Phủ). Danh hiệu: Ông Hoàng Khâm Sai
-Ông Hoàng Năm
-Ông Hoàng Sáu
-Ông Hoàng Bảy (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Ông Bảo Hà
-Ông Hoàng Bát (Nhạc Phủ). Danh hiệu:Ông Bát Quốc, là một ông quan gốc người Hán đóng quân ở Lào Cai
-Ông Hoàng Chín (Thiên Phủ). Danh hiệu: Ông Cờn Môn
-Ông Chín Thượng(Nhạc Phủ)
-Ông Hoàng Mười (Địa Phủ). Danh hiệu: Ông Nghệ An, có công chống giặc Thanh từ bên TQ
Một số đền thờ có các ông Hoàng được nhiều người biết đến như : đền ông Hoàng Bảy ỏ Bảo Hà, Ông Hoàng Mười ở Bến Thuỷ – Nghệ Tĩnh.
Hàng Cô được gọi từ Cô Đệ Nhất (cô cả ) đến Cô Thứ Mười Hai ( cô bé), đều là các thị nữ của Thánh Mẫu.Các cô ăn mặc rất đẹp, áo các màu, thắt lưng hồng, tóc cài hoa…

Tứ Phủ Tiên Cô(四府山莊神領聖姑)
-Cô Đệ Nhất Thượng Thiên (Thiên Phủ)
-Cô Đệ Nhất Thượng Ngàn(Nhạc Phủ)
-Cô Đôi Thượng(Nhạc Phủ)
-Cô Đôi Cam Đường(Nhạc Phủ) quê cô ỏ Đình Bảng Bắc Ninh nhưng cô Hiển Thánh ở Cam Đường Lào Cai
-Cô Bơ Hàn Sơn (Thoải Phủ) tức là Cô Ba Bông & Cô Ba Tây Hồ
-Cô Tư (Địa Phủ)
-Cô năm Suối Lân(Nhạc Phủ)
-Cô sáu Sơn Trang(Nhạc Phủ)
-Cô bảy Tiên la(Nhạc Phủ)
-Cô Tám đồi chè(Nhạc Phủ) ở đền Phong Mục
-Cô Chín Sòng Sơn(Thiên Phủ)
-Cô Chín Thượng(Nhạc Phủ)
-Cô Chín Thoải (Thoải Phủ)
-Cô Mười Đồng Mỏ(Nhạc Phủ)
-Cô Bé Đông Cuông(Nhạc Phủ)
-Cô Bé Suối Ngang (Nhạc Phủ)
-Cô Bé Thác Bờ (Thoải Phủ)
-Cô Bé Thoải(Thoải Phủ)
-Cô Bé Đen(Nhạc Phủ) tức là Cô Bé Sóc
Các Cậu quận là những người chết trẻ hiên linh, họ là những phụ tá của các ông Hoàng.
-Cậu Hoàng Cả (Thiên Phủ)
-Cậu Hoàng Đôi (Nhạc Phủ)
-Cậu Hoàng Bơ (Thoải Phủ)
-Cậu Hoàng Bé(Nhạc Phủ)
Tại các điện thờ Mẫu ở hạ ban hoặc ngoài sân còn có sự hiện diện của các vị Quan Ngũ Hổ hay ông Lốt (rắn). Trong quan niệm dân gian, thần Ngũ Hổ cai quản núi rừng, là vị thần linh canh giữ các ngội đền.
Quan Ngũ Hổ (五方神虎威靈)
-Đông Phương Giáp Ất Mộc Đức Thanh Hổ Thần Quan (東方甲乙木德青虎威靈)
-Nam Phương Bính Đinh Hoả Đức Xích Hổ Thần Quan (南方丙丁火德赤虎威靈)
-Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Đức Hoàng Hổ Thần Quan (中央戊已土德黃虎威靈)
Tây Phương Canh Thân Kim Đức Bạch Hổ Thần Quan (西方庚辛金德白虎威靈)
• Bắc Phương Nhâm Quý Thuỷ Đức Hắc Hổ Thần Quan (北方壬癸水德黑虎威靈)
Còn Rắn Thần cai quản nơi sông nước.

Ông Lốt (兩位青蛇白蛇大神將軍)
-Thanh Xà Đại Tướng Quân
-Bạch Xà Đại Tướng Quân
Lễ trình đồng
Đệ tử của Tứ Phủ sau khi đã được tôn lô nhang mà căn mạng vẫn còn quá nặng thì phải ra đàn Tứ Phủ sơn trang để chính thức trở thành ghế đệm cho các Ngài( 38 vị = 38 giá đồng hầu các vị Thánh được tôn thờ trong Tứ Phủ) thì mới hết bị Ngài hành. Đệ tử trong Tứ Phủ quan niệm rằng: sở dĩ gặp những điều không may trong cuộc sống thường nhật là tại các Ngài đã chấm đồng bắt lính mà không chịu ra hầu các Ngài nên bị hành, chỉ cần ra đàn xong là khỏi..
Lễ trình đồng này có mục đích trình diện con đồng với chư vị Mẫu, Mẹ, Vua, Cha, với các ông Hoàng bà Chúa. Mở đàn để ra trình diện với 4 phủ và sau lễ ấy mới được chính thức làm ghế đệm để các Ngài về phán bảo và làm việc quan. Lễ trình đồng hiện nay phải chịu nhiều tốn kém do người ta tự đua nhau: “Ghen vợ ghen chồng không bằng ghen đồng ghen bóng”
Nguời nghèo thì đàn mỏng lễ sơ, người giàu thì tổ chức trình đồng có đàn lễ lên tới con số 20 – 30 triệu đồng VN. Vào những năm 60 một đàn lễ trình đồng to nhất cũng chỉ tốn 50 ngàn đồng… Thông thường tín đồ chỉ đưa tiền cho nhà đền (Thủ đền), nhà đền lo sắm lễ tất cả. Cuộc lễ tổ chức trong 2 hoặc 3 ngày sau. Ngày đầu gọi là lễ mở Đàn hay lễ mở Phủ, ngày thứ 2 có hoặc không, để cách khoảng chứ không có lễ nghi gì quan trọng, và ngày cuối cùng là ngày tiễn Đàn sơn trang nên được gọi là: “Tiền tứ phủ, hậu sơn trang”.Lễ này cần rất nhiều lễ vật như: Hoa quả bầy trên khắp các ban thờ, thường dùng nhất là hoa huệ trắng. Đặc biệt ban thờ trước giá hầu thường được cắm hoa hồng. Có khi người ta lấy tiền giấy kết thành hình con bướm mắc vào cành huệ để các Ngài dùng những cành hoa ấy phát lộc. Rất nhiều trái cây đủ loại được bày thành từng mâm. Trong đó có một vài mâm đặc trưng mà buổi hầu đồng nào cũng phải có: Mâm quạt, mâm lược và mâm gương soi để dâng cho giá cô Bơ phủ. Một mâm hoa quả như: ớt, ổi, dứa, chuối, đu đủ…, gừng, chanh… gọi là lộc sơn trang để dâng cô Bé Thượng Ngàn; một mâm kẹo bánh, đồ chơi trẻ con để dânh cho giá Cậu; một mâm trứng, oản thịt luộc để dâng Ngũ hổ năm dinh; kẹo lạc trà tàu thuốc lá mà đầu thuốc có phết một ít thuốc phiện để dâng giá ông Hoàng Bảy.
Loại lễ thứ hai là đồ mã. Bắt buộc phải có một đài sơn trang, lớn hay nhỏ tùy theo ý muốn của người ra đàn. Đài sơn trang là một cái động nằm trong khu rừng âm u, trong động có các nàng tiên nữ theo hầu bà chúa Sơn Trang, có người gảy đàn, người múa hát… tất cả đều được làm bằng giấy. Bốn hình nhân thế mạng lớn bằng hình người thật, mặc sắc phục khác nhau: Xanh, đỏ, trắng , vàng tượng trưng cho bốn phủ. Mỗi hình nhân mang theo một điệp sớ. một thuyền giấy( thoi), một hình người có 3 đầu, mình rắn ( Lốt), một ngựa, một voi, và nhiều mũ, vàng thoi….
Loại lễ vật thứ 3 là một mâm sớ, 4 quyển sổ, 4 nghiên son, 4 thỏi mực, 4 bút lông. Mỗi sổ dành cho một phủ.
Trên ban thờ hầu được thiết lập thành 4 phủ. Đó là 4 dãy lụa đỏ, xanh, trắng, vàng trải dài trên bàn phủ xuống tận đất. Mỗi vuông lụa ngang khoảng 7 đến 9 tấc, dài khoảng 2,50m. Những vuông lụa đó phủ kín để che dấu bên trong là 1 cái thau, 1 cái gáo múc nuớc để trên thau, 1 hũ nước dán miệng kín bằng 1 tờ giấy cùng màu với phủ, một mâm gạo, một mâm trứng, thuốc lá, trà tàu, một hộp trầu cau. tất cả đều mới và cùng màu với phủ.
Ngoài cửa đề có bày 1 mâm gạo, trứng, muôi và cháo để cúng chúng sinh.
Khi mọi lễ vật đã được chuẩn bị xong, cuộc lễ bắt đầu. Lễ thường được tiến hành từ 10 giờ sáng. Người ra đàn phải tìm cho mình một Quan thày( Có đức cao trọng vọng và có tiếng trong Tứ Phủ ) để hầu mở phủ. Người ra đàn phải mang những y phục mà mình đã may để trình. Những y phục này chỉ có giá trị khi đã dâng lên và được các Ngài “chứng” bằng cách điểm dấu nhang lên trên đó.
Trong khi bà đồng sửa soạn hầu mở phủ thì cung văn tấu nhạc và thầy cúng đọc sớ và người ra đàn lễ bái trước tất cả các ban thờ, xong trở lại ngồi chầu nơi bệ hầu để khấn vái chờ nghe các Ngài phán bảo.
Quan thầy hầu trước là giá Tam tòa thánh mẫu. Rồi đến giá Quan. Gía này quan trọng nhất vì chỉ có các quan mới có quyền mở phủ còn những giá khác chỉ về chứng đàn mà thôi. Bởi vậy quan thầy hôm ấy băt buộc phải hầu giá các quan, còn các giá Cô, cậu,… gọi là hầu cho vui, muốn hầu hay không là tùy.
Mỗi phủ có một quan đầu đồng và quan ở phủ nào thì mở phủ ấy. Thí dụ:
Quan Bơ về mở phủ thứ 3, sắc trắng. Sau những nghi thức thường lệ “Quan” cầm một bó nhang đốt cháy, tay trái cầm chéo khăn và “chống nạnh”, Quan dậm chân hét một tiếng to, lúc ấy chiêng trống nổi lên dồn dập. Quan cầm bó nhang, xoay xoay trước ban thờ và 4 hướng, tiến đến phía các phủ cũng làm dấu điểm nhang. Đoạn ngồi xuống, nghe thầy cúng hoặc cung văn đọc sớ, đọc xong dâng mâm sớ lên cho quan điểm nhang. Quan kiểm sổ bằng cách chấm bút son vào sổ. Rồi đứng dậy tiến tới phủ của mình, Quan giở khăn choàng phủ ra, hầu dâng xếp khăn lại đặt trở lên bàn thờ. Quan lấy vài miếng trầu cau, một quả trứng, thuốc lá, một nhúm gạo bỏ tất cả vào thau sau khi đã điểm nhang trên các vật ấy. Quan lấy gáo chọc thủng nắp thố nước, múc 4 gáo đổ vào thau. Như vậy, là mở phủ xong, Quan trở lại chỗ hầu, nghe văn, ban lộc và xa giá hồi loan. Các quan ở phủ khác cũng đều làm giống như vậy. Sau khi quan thầy hầu mở xong 4 phủ tức là buổi lễ mở phủ đã xong. Suốt trong buổi hầu đồng người ra trình đồng phải hì hục khấn vái và quấn quít bên cạnh Quan thầy. Sau phần nghi lễ chính thức, nhà đền bày tiệc thiết đãi linh đình. Có thể tiễn đàn ngay ngày hôm sau hoặc để cách một hôm. Lễ tiễn đàn. Bà đồng trong cung hầu chuẩn bị sửa soạn hầu tiễn, ở bên ngoài cung văn và thầy cúng nổi chiêng trống và đọc sớ làm lễ tiễn Thổ công. Người ra đàn đi lễ tạ khắp các ban thờ. Các mâm cỗ mặn được bầy cúng trước các ban thờ. Vẫn có gạo muối, trứng, chầu cau, cháo để cúng chúng sinh ở cửa đền. Trước các đầu voi, ngựa, thuyền đều có để bát nhang. Cúng xong bà đồng bắt đầu hầu tiễn. Buổi hầu tiễn đồng này vẫn do quan thầy làm, cũng giống như buổi hầu mở phủ chứng đàn. Khi về giá các Quan. Quan nào chịu tiễn đàn thì Quan sẽ chứng sớ và ra lệnh cho hầu dâng cắm một thanh gươm và một cây cờ sau lưng. Tay trái Quan cầm một góc khăn và chống nạnh, tay phải cầm một góc khăn và một bó nhang to đốt cháy… Chiêng trống đổ dồn dập, mọi người vội vã bày hết đồ mã ra xếp dọc hai bên của đền hướng về phía đường đi. Quan làm dấu nhang trên tất cả cá đồ mã, khai quang điểm nhãn cho các hình nhân, những bông vạn thọ được xé nát ra trộn vào gạo muối rải tiễn các đồ mã và rải tiễn cả 4 phương. Quan cầm cờ múa quay và miệng hét “ há,há…” quan rải rượu và cắm nhang lên hình nhân và đồ mã, ra lệnh cho mang tất cả đi hóa….Bên ngoài các đồ mã được chuyển đi hóa, ở trong chiêng trống đổ dồn, quan trở lại ngồi trước bệ hầu uống rượu, hút thuốc, nghe văn, phát lộc và thăng. Buổi lễ ra đàn hay trình đồng như vậy là hoàn tất.
Người ra đàn có thể hầu bóng ngay hôm đó. Bắt đầu từ đó họ chính thức trở thành một “ Đồng” .
Các Ngôi đền, Chùa ở nước ta thường được xây dựng ở những nơi thanh tú, gần những nơi có sông núi mây trời, xung quanh khuôn viên thường có những cây cao bóng cả, hoa thơm bốn mùa tươi sắc.
Ngày Xuân đi lễ đền chùa, cầu mong Trời Phật Thánh Mẫu phù hộ cho gia đình mình, cho đất nước .Lòng chúng ta hướng về điều thiện và thấy cảnh vật cũng như con người ngày càng tươi đẹp thêm.

Sưu tầm 

 


Tin liên quan

Chia sẻ bài viết: 



Bình luận:

Hỗ trợ trực tuyến

Lê Công

0369.168.366

Nhà đất bán theo tỉnh thành
Nhà đất cho thuê theo tỉnh thành
Kinh Dịch
Tử vi
Huyền không Phi Tinh
Văn Hóa_Tín Ngưỡng
Thước lỗ Ban
Xen ngày tốt
Văn Hóa_Tín Ngưỡng
TIN NỔI BẬT

LÊ LƯƠNG CÔNG

Trụ sở: Số 31 - Mương An Kim Hải - Kenh Dương, Le Chan, Hai Phong

Tel: 0369168366 - Hotline: 0919.168.366 - Email: nhadatcongminh@gmail.com

Copyright © 2019 https://leluongcong.com/