Đạo Học
06/07/2020 - 3:23 PMLê Gia 1322 Lượt xem

ĐỆ TỨ TIẾT KHẨU QUYẾT THIÊN NHÂN HỢP PHÁT, THÁI DƯỢC QUI HỒ

第 四 節 口 訣 : 天 人 合 發, 采 藥 歸 壺

Nội phụ Bế Nhâm, Khai Đốc, Tụ Hỏa Tải Kim nhị quyết

Có nghe Thầy nói: Con người nhận được Trung Khí của Trời Đất mới sinh, nên vốn có Chân Chủng (chỉ Dược Vật). Chân Chủng ấy, có thể sinh sôi vô cùng, có thể bất sinh, bất diệt. Nhưng nếu con người không biết bảo thủ nó, thì nó sẽ ngày một tiêu hao, cuối cùng sẽ chết. Biết bảo thủ mà không biết đoàn luyện, cuối cùng sẽ không kiên cố, dễ bị Tạo Hóa đoạt mất.

Nhưng nếu biết gìn giữ hẳn hoi, lại biết đoàn luyện, thì nó sẽ ngưng kết thành đơn, giống như Kim Ngọc, có thể Trường sinh, có thể bất hóa.

Như muốn luyện Đan này, tuy là phải lấy dược vật làm chủ nhưng muốn hái thuốc này, thì phải dùng công phu tại căn bản. Thế nào là căn bản?

Thưa đó là Thái Cực trong ta. Trời đất lấy hỗn hỗn, độn độn làm Thái Cực. Thân ta lấy yểu yểu, minh minh làm Thái Cực. Thiên địa do Âm Dương giao cấu cho nên sinh Vạn Vật. Thân ta nhờ Âm Dương giao cấu nên sinh Đại Dược. Đại Dược sinh trong thân ta, với Thiên Địa sinh vật không khác. Cũng chỉ là Âm Dương nhị khí, cái thi, cái hóa mà Huyền Hoàng tương giao, nhất bẩm, nhất thụ, màdưới trên tương tiếp, hỗn hóa thành một. Cho nên nói Hỗn Độn. Hỗn độn là phu quách (cảnh giới) củaTrời Đất. Yểu minh là bào thai của Đại Dược (Nội Đơn).

Nam Hoa Kinh nói: Chí Đạo chi tinh. Yểu yểu minh minh 至 道 之 精. 窈 窈 冥 冥 (Tinh hoa của Chí Đạo là Yểu Yểu, Minh Minh).

Đạo Đức Kinh nói: Yểu hề, Minh hề, kỳ trung hữu tinh, kỳ tinh thậm chân 窈 兮, 冥 兮, 其 中 有 精, 其 精 甚 真.[1]

Tưởng muôn loài tối tăm u uẩn,

Tinh quang Trời vẫn lẩn bên trong.

Tinh quang ấy thực Thiên Chân.

Chân Tinh đó, chính là Chân Chủng Tử ttong thân ta. Vì nó nhập vào Hỗn Độn nên gọi là Thái Cực, vì nó là Nguồn Gốc sinh hóa, nên gọi là Tiên Thiên; vì nó là Âm Dương chưa phân, nên gọi là Nhất Khí, cũng còn gọi là Hoàng Nha, là Huyền Châu, là Chân Diên, là Dương Tinh. Cái Tinh Hoa đó nếu ngưng kết bên ngoài vũ trụ, thì là Kim, Thạch, qua vạn năm không hư.

Nếu con người biết Phản Thân (biết Hồi Quang, Quán Chiếu) là tìm ra được Dương Tinh ấy trong mình, mà ngưng kết lạt thàng châu bửu, thì cũng sẽ vô cùng như trời đất, Kim, Thạch làm sao mà sánh được?

Nhưng Dương Tinh này không dễ có được. Vì trong thân ta, từ trên xuống dưới, cái gì là hữu hình thì cũng đều thuộc âm. Cho nên Vân Phòng Chân Nhân nói: Cái thân tứ đại của ta, tất cả đều thuộc Âm, không biết cái gì là Dương Tinh.

Duyên Đốc Tử nói: Cái nhất điểm Dương Tinh trong người ta, không ở Tâm, Thận mà ở Huyền Quan Nhất Khiếu.[2] Nhận đắc Huyền Quan tiện thị Tiên. Có biết Huyền Quan, thì các chữ Đỉnh Lô, Dược Vật, Hỏa Hầu mới hiểu được hẳn hoi. Huyền Quan là từ bỏ Thức Thần, là phát huy NGYÊN THẦN. Lưu Nhất Minh gọi Huyền Quan là Huyền Tẫn hay Huyền Tẫn Môn.

Liễu Hoa Dương gọi Huyền Quan là Trung Cung, là Thiên Tâm.

Có người còn gọi đó là Quân Hỏa, Chân Hỏa, Chân Tính, Nguyên Thần.

Nó thông qua Đốc Mạch, Nhâm Mạch, Xung Mạch, Đới Mạch, trên thông với Tâm, dưới thông với Quan Nguyên, đằng sau thông với Thận, đằng trước thông với Rốn, tán ra châu thân, là Tổng Căn của Bách Mạch, nên gọi là Tiên Thiên. Cổ nhân gọi khiếu này là Khiếu trung Khiếu. Mà Khiếu là Đan Điền. Trên thì gọi là Kim Dỉnh, trên chút nữa thì gọi là Huỳnh Đình, phía dưới Khiếu gọi là Quan Nguyên. Gọi là Huỳnh Đình, là Kim Đỉnh, là Khí Hải, là Quan Nguyên tất cả đều Vô Hình. Ta không nên chấp nhất, câu nệ. Thánh Nhân còn gọi Quan Nguyên là Trung. Cái Trung này Tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông gồm đủ cả hai bề Thể Dụng, v.v.[3]

Triệu Trung Nhất nói: Nhất thân nội ngoại tận giai Âm, Mạc bả Dương tinh lý diện tầm 一 身 內 外 盡 皆 陰, 莫 把 陽 精 里 面 尋 (Thân ta nội ngoại thảy là Âm, Đừng tìm Dương Tinh ấy trong ta).

Khưu Trường Xuân nói: Dương Tinh tuy thị có được trong khi giao hợp, nhưng không phải là Ngự Nữ chi thuật, trong không phải là thân xác do cha mẹ sinh ra, ngoài không phải là Châu Báu của núi rừng. Tìm tòi Dương Tinh trong ta, chắc là sai, nhưng tìm cầu nó bên ngoài cũng chẳng đúng.

Những lời như vậy có khác gì mò trăng đáy nước, hái hoa trong gương đâu? Những người thiệt thông minh như Nhan Hồi, Mẫn Tử cũng khó mà hiểu nổi.

Chính vì Thầy ta ít nói tới nên thế nhân cũng ít người biết. Không phải người bây giờ mới thấy thế mà cổ nhân trước cũng không hiểu nổi.

Ngọc Đỉnh Chân Nhân viết:

Ngũ Hành, Tứ Tượng Khảm hòa Ly,

 五 行 四 象 坎 和 離,

Thi quyết phân minh thuyết dữ y.

 詩 訣 分 明 說 與 伊.

Dược sinh, hạ thủ công phu xứ,

 藥 生 下 手 工 夫 處,

Kỷ nhân hội đắc, kỷ nhân tri.

 幾 人 會 得 幾 人 知.

Ngũ Hành, Tứ Tượng, Khảm với Li,

Khẩu quyết phân minh nói cho nghe,

Thuốc sinh, và cách ra tay xử,

Ít người hiểu nổi, ít người hay.

Tử Dương Chân Nhân nói: Thử cá sự, thế gian hi, Khởi thị đẳng nhàn nhân đắc tri 此 這 事 世 間 稀, 豈 是 等閑 人 得 知 (Cái chuyện này, thế gian hiếm. Thường nhân làm sao mà biết).

Hạnh Lâm Chân Nhân nói:

Thần khí qui căn xứ,                神 氣 歸 根 處,

Thân Tâm phục Mệnh thì.      身 心 復 命 時.

Giá ta Chân Khổng Khiếu,     這 些 真 孔 竅,

Liệu đắc thiểu nhân tri.           料 得 少 人 知

Thần Khí qui Căn xứ,

Thân Tâm Phục Mệnh Thì,

Chính Chân Khổng Khiếu ấy,

Mấy ai hiểu được đây?

Bá Dương Chân Nhân nói:

Nhất giả dĩ yểm tế, Thế nhân mạc tri chi.

 一 者 以 掩 蔽, 世 人 莫 知 之

Chữ Nhất sâu kín vậy, Thế nhân ít kẻ hay.

Nhất là gì? Nó là Cái Trung chưa phát,[4] là Bất Nhị chi Nhất, mà trước đây gọi là Tiên Thiên Nhất Khí vậy.

Thúy Hư Thiên viết:

Đại dược tu bằng Thần Khí Tinh,

 大 藥 須 憑 神 氣 精,

Thái lai nhất xứ kết giao thành.

 采 來 一 處 結 交 成.

Đơn đầu chỉ thị Tiên Thiên Khí,

 丹 頭 只 是 先 天 氣,

Luyện tác Hoàng Nha, phát Ngọc Anh.

 煉 作 黃 芽 發 玉 英.

Đại Dược chẳng qua Thần, Khí, Tinh,

Hái cất đem về giao kết thành.

Đan dược chính là Tiên Thiên Khí,

Cũng gọi Hoàng Nha hay Ngọc Anh.

Phục Mệnh Thiên viết:

Thái nhị nghi vị phán chi khí,

 采 二 儀 未 判 之 氣,

Đoạt Long Hổ thủy cấu chi tinh,

 奪 龍 虎 始 媾 之 精,

Thiểm nhập Huỳnh Phòng,

 閃 入 黃 房,

Đoạn thành chí bửu.

 鍛 成 至 寶.

Lấy hỗn độn vị phân chi Khí,

Lấy Nguyên Thần, Nguyên Khí, Nguyên Tinh.

Đem về Huỳnh Phòng,

Luyện thành chí bửu.

Sùng Chính Thiên có bài:

Hàn nguyên vạn trượng thụy ly long,

 寒 源 萬 丈 睡 驪 龍,

Hàm hạ tàng châu quýnh quýnh hồng.

 頷 下 藏 珠 炯 炯 紅.

Cẩn mật bất kinh, phương thái đắc,

 謹 密 不 惊 方 采 得,

Tiện y thời nhật pháp thần công.

 便 依 時 日 法 神 功.

Hàn Tuyền muôn trượng ngủ rồng đen,

Trong mồm có ngọc đỏ hây hây,

Cẩn thận, chẳng kinh sẽ lấy được,

Đem về tu luyện đúng tháng ngày.

Muốn Thái Dược, phải không hái mới hái được.

Muốn thủ Dược phải không thủ mới thủ được.[5]

Phải tĩnh định, không dùng động tác mới được.

Xưa Hoàng Đế mất Huyền Châu mới bảo Tri, Ly Chu và Khiết Cấu đi tìm, nhưng không tìm được. Liền sai Võng Tượng. Võng Tượng tìm được. Võng Tượng chính là quên hình hài. Phải Vong Hình, Võng Tượng, thì mới tìm ra được Tiên Thiên Nhất Khí.

Hệ Hoại Tập (Tiên Thiên ngâm) viết:

Nhất phiến Tiên Thiên hiệu Thái Hư,

 一 片 先 天 號 太 虛,

Đương kỳ vô sự kiến Chân Du.

 當 其 無 事 見 真 腴.

Nhất phiến Tiên Thiên gọi Thái Hư,

Chính trong vô sự thấy Thái Du.[6]

Lại nói:

Nhược vấn Tiên Thiên nhất tự Vô,

 若 問 先 天 一 字 無,

Hậu Thiên phương yếu khán công phu.

 後 天 方 要 看 功 夫.

Muốn hỏi Tiên Thiên nhất tự Vô.

Hậu Thiên cần phải rõ công phu

Tiên Thiên là gì? là Tịch nhiên bất động. Là yểu yểu, minh minh, là Thái Cực khi chưa phân chia.

Hậu Thiên là gì? là Cảm nhi toại thông. Là hoảng hoảng, hốt hốt, là khi Thái Cực đã phân chia vậy.

Hỗn Nguyên Bửu Chương có câu:

Tịch nhiên bất động cảm nhi thông,

 寂 然 不 動 感 而 通,

Khuy kiến Âm Dương tạo hóa công.[7]

 窺 見 陰 陽 造 化 功.

Tịch nhiên bất động (Tiên Thiên), Cảm nhi thông (Hậu Thiên),

Nhìn thấy Âm Dương Tạo Hóa công.

Tin ở Tịch Nhiên Bất động, là tâm con người thông được với Trời, và có thể đoạt cơ Tạo Hoá.

Túy Hư Thiên vân:

Mạc hướng Thận trung cầu Tạo Hóa,

 莫 向 腎 中 求 造 化,

Khước tu Tâm lý mịch Tiên Thiên.

 卻 須 心 里 覓 先 天.

Đừng tìm Tạo Hoá nơi quả Thận,

Muốn thấy Tiên Thiên phải do Tâm.

Trong khi Hỉ Nộ còn chưa phát, nghe nhìn tất cả còn chưa tới, lúc sông núi còn yên tĩnh, núi non còn chưa bốc khói, Nhật Nguyệt còn chưa vận hành, Tuyền Ki còn chưa chuyển động, bát mạch còn qui nguyên, hô hấp còn chưa có, hãy còn thâm nhập vào trong yểu minh, còn chưa biết có trời che và đất chở, chưa biết rằng thế giới còn có người, mình còn có thân. Phút chốc Tam Cung (Tam Đan Điền) sung mãn Nguyên Khí.

Cơ Tạo hóa máy động, âm thanh bắt đầu có, nên:

Nhất kiếm tạc khai Hỗn Độn,

 一 劍 鑿 開 混 沌,

Lưỡng thủ phách Liệt Hồng Mông.

 兩 手 劈 裂 鴻 蒙.

Một kiếm tạc khai Hỗn Độn,

Hai tay banh bửa Hồng Mông.

Thế là từ Vô sinh ra Hữu.

Ninh Huyền Tử có thơ:

Bất tại trần lao bất tại sơn,

 不 在 塵 勞 不 在 山,

Trực tu cầu đáo yểu minh đoan.

 直 須 求 到 窈 冥 端.

Chẳng ở trần ai, chẳng núi non,

Vào sâu Thiên Lý, mới thấy chàng (Dương Tinh).

Yểu minh là gì? Đó là lúc Hư Cực Tĩnh Đốc.

Trong tâm rảnh rang vô vật là Hư. Niệm đầu chưa khởi là Tĩnh. Chí Hư cho đến cùng cực, Thủ Tĩnh cho đến thuần nhất, thì Âm Dương tự nhiên sẽ kết hợp. Âm dương kết hợp thì Dương Tinh sẽ sinh ra.[8]

Cho nên Trần Nê Hoàn nói: Lưu đắc Dương Tinh, Thần Tiên hiện thành. 留 得 陽 精, 神 仙 現 成 (Lưu được Dương Tinh, Thần Tiên hiện thành).

Vả Dương Tinh là do nhật nguyệt phát sinh, nhưng thế nhân không biết cách hấp thụ, cho nên nó tán ra thành khí chu lưu trong thân.

Chí Nhân biết phép truy nhiếp nó lại, tụ nó lại thành Nhất Thử Chi Châu (hạt Châu to bằng hạt gạo). Thích Gia gọi là Bồ Đề, Tiên Gia gọi là Chân Chủng.

Người Tu Tính mà không biết Bồ Đề tử ấy, thì kinh Viên Giác gọi họ là «Chủng Tính ngoại đạo». Người Tu Mệnh mà không biết Chân Chủng tử ấy thì kinh Ngọc Hoa gọi họ là «Khô tọa bàng môn» vậy.

Trương Tử Dương nói:

Đại Đạo tu chi hữu dị nan,

 大 道 修 之 有 易 難,

Dã tri do ngã, dã do thiên.

 也 知 由 我 我 由 天.

Tu Đại Đạo vừa khó, vừa dễ,

Chuyện đó do ta cũng do Trời.

Nếu con người không biết Dược sinh ra sao, Thái Thủ thế nào, Phanh Luyện thế nào, thì không thấy chỗ dễ của nó.

Nếu biết rõ giờ Thuốc sinh, biết khẩu quyết để Thái Thủ, biết công phu phanh luyện, thì không thấy chỗ khó của nó. Tùy như gặp hay không gặp được Thầy vậy.

Cho nên nói:

Nguyệt chi viên, tồn hồ khẩu quyết,

 月 之 圓 存 乎 口 訣,

Thời chi Tí, diệu tại tâm truyền.

 時 之 子 妙 在 心 傳.

Trăng mà tròn được, nhờ khẩu quyết,

Giờ Tí hay ho, tại tâm truyền.

Lời bàn của Dịch Giả:

Dược Vật là Thần, Khí, Tinh.

Bạch Ngọc Thiềm nói: Tinh này không phải là Tinh Khí khi giao cảm. (Theo tôi: Trong tủy xương sống vốn có Nước. Nước này trong vắt. Trong tủy sống cũng có Khí. Mỗi khi lấy nước trong tuỷ sống ra mấy phân khối, thì y sĩ thường bơm vào một số phân khối khí trời tương đương, đề phòng cho bệnh nhân khỏi chóng mặt. Và trong tủy sống chắc có Thần, vì Thần là Khí tinh luyện.)

Khí này không phải là Khí Hô hấp. Thần đây không phải là Thần Tư Lự mà là Nguyên Thần. Đó chính là Nguyên Tinh, Nguyên Khí, Nguyên Thần.

Tinh là cơ sở, Khí là Động lực, Thần là Chủ Tể.

Du Diễm nói: Tâm hư thì Thần ngưng, Thần ngưng thời Khí tụ, Khí tụ thời Tinh sinh.

Cho nên thái dược cốt là Tâm không có tạp niệm và Hư Tĩnh, như vậy mới có thể ngưng thần nhập Khí huyệt.

Đan gia cho rằng: Luyện Tinh hoá Khí là Ngoại Dược. Luyện Khí hoàn thành (hoá Thần) là Nội Dược.

Lục Tây Tinh gọi: Dương Tinh là Dược Vương, là Chân Diên.

Dược chính là Nhân Đơn, làm tăng khí lực, làm cho thân thể khinh khoát, kiên cường, khiến tà khí không thể xâm nhập. Nó làm cho con người trở thành Thần Tiên vậy.[9]

Dược vật cũng còn gọi là Đại Dược, Thượng Dược.

Tính Mệnh Khuê Chỉ, tập 1 có nói:

Đại dược tuy phân Thần, Khí, Tinh,

Tam ban nguyên thị nhất căn sinh.

Phàm phu sinh tữ như luân chuyển,

Chỉ nhân mê khước Bản Lai Tâm.

Đại dược tuy phân Thần, Khí, Tinh,

Tam Ban cũng vẫn một gốc sinh,

Phàm nhân luân chuyển trong sinh tử,

Chẳng qua không biết Bản Lai Tâm.

Đại dược cũng còn gọi là Đơn Mẫu, hay Chân Diên, hay Kim Dịch Hoàn Đơn, hay Kim Đơn Đại Dược. Nó cũng gắn liền với Chữ Thất Nhật Lai Phục của Kinh Dịch.

Thái Dược hay Thái Thủ.

Thái Dược là lúc tĩnh tọa sẽ thấy Nguyên Tinh phát sinh, vừa thấy cảm giác, liền tức tốc phải Thượng Vận. Và phải dùng Chính Niệm thu nhiếp Nguyên Tinh về Đan Điền. Thái Dược có hai thứ: Thái Tiểu Dược và Thái Đại Dược.

Thái Tiểu Dược là Luyện Tinh hóa Khí.

Thái Đại dược là Luyện Khí hóa Thần. Nguyên Khí, Nguyên Tinh là Dược. Dùng Vi Ý đem Nguyên Tinh về Đan Điền là Tiểu Thái Dược.

Dùng bốn chữ Hấp=Hít vào, Để=Đưa lưỡi lên cúa để khóa mồm, Toát=Khép kín Hậu Môn, Beá=Nhắm mắt, ngậm miệng, để luyện Nguyên Khí cho thành Đại Dược (Đan mẫu).[10]

Muốn thái dược phải có thời. Phải Thái Thủ vào lúc giờ Tí, hay Hoạt Tí (Tí là từ 11 giờ đến 1 giờ đêm. Hoạt Tí là giờ Tí Linh động. Lấy kiến nghiệm làm chuẩn. Hoạt Tí là Lúc Nhất Dương lai phục, đó là giờ Tí trong Thân ta. Đạo Quang nói: Tu luyện bất dụng tầm Đông Chí, Thân trung tự hữu nhất Dương sinh.[11]

Trần Trí Hư nói: Phù Thái thủ giả, thái Tiên Thiên chi khí, thủ Chân Nhất chi diên.[12]

***

Xưa nghe Doãn Sư nói:

Dục cầu Đại Dược vi đơn bản,

 欲 求 大 藥 為 丹 本,

Tu nhận thân trung Hoạt Tí Thời.

 須 認 身 中 活 子 時.

Muốn dùng Đại Dược làm Đơn Bản,

Phải biết thân trung Hoạt Tí Thời.

Lại có kệ:

Nhân độc «Kim Đơn tự»,                  因 讀 金 丹 序

Phương tri Huyền Tẫn Khiếu.        方 知 玄 牝 竅

Nhân độc Nhập Dược Kính,          因 讀 入 藥 鏡

Hựu tri ý sở đáo.                              又 知 意 所 到

Đại Đạo hữu Âm Dương,               大 道 有 陰 陽

AÂm Dương tùy động tĩnh.             陰 陽 隨 動 靜

Tĩnh tắc nhập yểu minh,                 靜 則 入 窈 冥

Động tắc hoảng hốt ứng.               動 則 恍 惚 應

Chân Thổ phân Mậu Kỷ,                真 土 分 戊 己

Mậu Kỷ bất đồng thời.                     戊 己 不 同 時

Kỷ đáo đãn tự nhiên,                       己 到 但 自 然

Mậu đáo hữu tác vi.                         戊 到 有 作 為

Phanh luyện Khảm trung Diên,     烹 煉 坎 中 鉛

Phối hợp Ly trung Hống.                配 合 離 中 汞

Diên Hống kết Đơn Sa,                  鉛 汞 結 丹 砂

Thân Tâm phương nhập định.       身 心 方 入 定

Nhân đọc tựa Kim Đơn,

Mới hay Huyền Tẫn Khiếu.

Nhân đọc Nhập Dược Kính,

Mới biết nơi Ý đến.

Đại Đạo có Âm Dương,

Âm Dương là Động Tĩnh.

Tĩnh thời nhập yểu minh,

Động thời hoảng hốt ứng.

Mậu Kỷ khác giờ nhau.

Kỷ đến do Tự Nhiên,

Mậu lai có tác vi.

Phanh luyện Khảm trung Diên,

Phối hợp Ly trung Hống.

Diên Hống kết Đơn Sa,

Thân Tâm mới nhập định.

Nói Động Tĩnh, nói Yểu Minh, nói Chân Thổ đều nói về khẩu quyết của Hoạt Tí Thời.

Thế nào là Động Tĩnh?

Thưa: Tịch nhiên bất động, phản bản, phục tĩnh, đó là giờ của Khôn. Ta lấy Tĩnh mà đợi nó. Tĩnh cực rồi động, Dương khí manh nha, đó là giờ của Phục. Ta lấy động mà ứng với nó.

Đáng Động mà pha Tĩnh vào, đáng Tĩnh mà pha Động vào. Hoặc khi chưa lớn mà lại nâng cho lớn lên, hoặc khi đã hết mà còn thêm, đều không phải là lẽ thường tình của Động Tĩnh.

Bậc Chí Nhân xưa nói: Động là Thiên Hành, Tĩnh là Uyên Mặc (lặng như vực sâu). Đáng động thì động, đáng tĩnh thì tĩnh, đó là lẽ thường.

Học giả ngày nay, không biết rằng Động Tĩnh trong Đơn pháp có qui luật, nên ngưới chuyên về Đông, nhười lại chuyên về Tĩnh. Đối với họ, Động là Hành Khí, Tĩnh là Thiền Định. Như vậy là sai.

Chỉ Huyền Thiên há chẳng nói:

Nhân nhân khí huyết bản thông lưu,

 人 人 氣 血 本 通 流,

Doanh vệ Âm Dương bách khắc chu.

 營 衛 陰 陽 百 刻 周.

Khởi tại bế môn, học hành Khí,

 豈 在 閉 門 學 行 氣,

Chính như đầu thượng hựu an đầu.

 正 如 頭 上 又 安 頭.

Ai ai khí huyết cũng lưu thông,

Chảy quanh Doanh Vệ, suốt ngày ròng.

Đâu tại bế môn học hành khí,

Như đã có đầu rồi lắp thêm luôn.

Đâu phải Hành Khí là động?

Túy Hư Thiên cũng nói:

Duy thử Kiền Khôn chân vận dụng,

 惟 此 乾 坤 真 運 用,

Bất tất ngột ngột, đồ vô ngôn.

 不 必 兀 兀 徒 無 言.

Vô Tâm, vô niệm, Thần dĩ hôn,

 無 心 無 念 神 已 昏,

An đắc ngưng tụ thành thai tiên.

 安 得 凝 聚 成 胎 仙.

Đất trời vận dụng có qui mô,

Đâu phải ngồi ngây, miệng lặng tờ.

Tâm không, không niệm, Thần hôn mất,

Sao mà ngưng tụ kết Thai Tiên?

Đâu phải Thần Định là Tĩnh.

Con người Động cực thì Tĩnh, tự nhiên sẽ nhập vào yểu minh, yểu minh là khi ngủ. Tuy nhập vào cảnh giới không trời, không đất, không người, nhưng chưa đi vào mộng cảnh.

Nhưng khi đã vào mộng cảnh, thì sẽ có Vui, Giận, Kinh, Khủng, Phiền, Não, Bi, Hoan, Ái, Dục đủ mọi tình huống, không khác lúc ban ngày.

Nhưng lại khác với cảnh giới yểu minh không Trời, không Đất, không người.

Yểu yểu, Minh Minh chỉ thấy ban ngày lúc Động Cực mong tĩnh, mối có cảnh tượng đó. Còn như đêm khi ngủ say, tất lại có mộng, thì làm sao mà có cảnh tượng Yểu Minh này được?

Lúc ban ngày, mỗi khi có lúc Yểu Minh, thì con người lại suy nghĩ tứ tung làm mất giây phút ấy. Còn như cầu để mà vào tình trạng yểu minh, thì thật là hiếm vậy.

Thôi Công (Nhập Dược Kính) nói: Nhất nhật nội, Ý sở đáo, Giai khả vi 一 日 內, 意 所 到, 皆 可 為 (Trong mỗi ngày, Ý mà đến, Đều làm được).

Trong một ngày, ý đến không phải một lần, nên Thái Thủ cũng không phải chỉ có một lần.

Trương bình Thúc gọi thế là: Một hột rồi lại một hột, từ ít tời nhiều vậy.

Tóm lại Đại Dược cần lấy Chân Ý mà cầu. Cho nên nói: Hảo bả Chân Diên, chước ý tầm 好 把 真 鉛, 著 意 尋 (Phải chú ý mới tìm được Chân Diên).

Lại còn nói: Hằng hướng Hoa Trì chước ý tầm 恆 向 華 池 著 意 尋 (Luôn phải hướng về Đơn Điền chú ý tìm cầu).[13]

Cho nên, Chân Ý trong con người, chính là Chân Thổ. Chân Thổ sinh ra có khi không phải do cảm xúc mà cũng do tự nhiên. Dù khi ngồi xe hay cưỡi ngựa, dù là trong khi huyên náo nó cũng phát sinh được. Không gì cấm chỉ được nó. Cho nên gọi là Chân Thổ.

Chân Thổ có hai loại: Mậu và Kỷ. Thổ đã có hai, thì Ý cũng có hai. Gọi là hai vì có đủ Âm Dương. Gọi là Chân, vì không chút cưỡng cầu, tà ngụy. Nếu đã cưỡng cầu, tà ngụy, thì đã có mưu lự. Mưu lự là thuộc hư giả, Không phải là Chân Ý vậy,

Có Chân Ý này rồi, thì Chân Diên mới sinh. Sao lại nói rằng: Có Chân Ý rồi, Chân Diên mới sinh?

Vì Động cực rồi Tĩnh. Chân Ý vừa đến sẽ nhập yểu minh. Ý này thuộc Âm, gọi là Kỷ Thổ. Âm Dương giao cấu, chính đáng là khi Dương Hào vừa động, tự cảm thấy như hoa lòng vừa nở ra, khí ấm đầy mình, Âm Dương giao nhau nên Chân Tinh tự sinh. Mà Chân Tinh tức là Chân Hống. Cho nên nói: Thủy Hương Diên, chỉ nhất vị 水 鄉 鉛, 只 一 味 (Thủy Hương Diên chỉ có một mùi vị) chính là vì vậy.[14]

Âm Dương giao cấu. Giữa lúc Âm Dương chưa chia và sẽ chia, còn hoảng hoảng, hốt hốt, đó chính là lúc Âm cực sẽ Động. Cái Ý này thuộc Dương, đó là Mậu Thổ. Lúc ấy Chân Diên vừa lộ, dược vật hãy còn non yếu. Lúc ấy đã có hình có tượng, chẳng khác gì lúc mới bình minh, vừa thấy phát động quan kiện, tức tốc phải thái thủ lấy ngay, thì Chân Tinh vừa sinh ấy mới không bị mất mát.

Gọi là Thái Thủ Công Phu, chính là Hình giải quyết 形 解 訣 của Đạt Ma, chính là Sơ Thừa Quyết 初 乘 訣 của Bạch Hải Thiềm.

Cả hai khẩu quyết đại khái giống nhau, và không ngoài bốn chữ: Hấp 吸, Thiểm 舔, Toát 撮, Bế 閉.

Thuần Dương Tổ Sư nói:

Yểu yểu, minh minh sinh Hoảng Hốt,

 窈 窈 冥 冥 生 恍 惚,

Hoảng Hoảng, Hốt Hốt kết thành Đoàn,

 恍 恍 惚 惚 結 成 團.

Đó chính là khẩu quyết này.

Tuy hãy còn là Phép Hữu Vi, chưa phải là Chân Thổ, nếu vậy làm sao thi triển công phu?

Cho nên nói: Chân Thổ cầm Chân Diên 真 土 擒 真 鉛 (Dùng Chân Ý thái thủ Chân Khí).

Chân Diên (Chân Khí) thượng thăng sẽ phối hợp với Chân Hống (Nguyên Thần). Nguyên Thần gặp Chân Khí sẽ không bay đi mất. Vì thế nói: Chân Diên chế Chân Hống 真 鉛 制 真 汞 (Chân Khí Khống chế Nguyên Thần).

Chân Khí, Nguyên Thần đã qui về Chân Thổ (Đan Điền), thì thân tâm sẽ tự nhiên bất động và Kim Đơn Đại Dược sẽ thành vậy.

Trong một giờ, cũng có cơ vi Nhất Dương lai phục, cái cơ vi này không ở ngày Đông Chí, không ở ngày mồng một, không ở tại giờ Tí (nưả đêm). Nếu không thâm đạt Âm Dương, không thấu hiểu được Tạo Hóa trong ta, thì không sao hiểu được HOẠT TÍ THỜI. Đó là điều bí ẩn vậy.

Trong 12 giờ một ngày, lúc nào Âm Dương cũng giao cấu được, mà sao thánh nhân lại chọn giờ Tí, nhất Dương sơ động, là tại sao?

Thưa lúc ấy Thái Dương ở chính Bắc, mà trong con người là ở Huyệt Vĩ Lư, thế là tương ứng với trời đất.

Cho nên lúc ấy có thể ăn trộm cơ vi của Trời Đất, đoạt được chỗ huyền diệu của Âm Dương, luyện được hồn phách làm một, hợp được Tính Mệnh song tu.

Lúc ấy là giữa quẻ Khôn và quẻ Phục, lúc ấy là lúc Trời Đất đóng mở, là lúc Nhật Nguyệt hợp bích, là lúc thảo mộc manh nha, là lúc Âm Dương giao hội trong thân, Thần Tiên thái dược vào lúc ấy, lúc ấy là lúc Nội Chân, Ngoại Ứng, tương phù, tương hợp như hai miếng ấn tín chẻ đôi. Đó chính là lẽ THIÊN NHÂN HỢP PHÁT CHI CƠ. THẬT LÀ CHÍ DIỆU, CHÍ DIỆU VẬY.

Trần Nê Hoàn nói:

Mỗi đương Thiên Địa giao hợp thời,

 每 當 天 地 交 合 時.

Đạo thủ Âm Dương tạo hóa cơ.

 盜 取 陰 陽 造 化 機.

Mỗi khi Thiên Địa giao hội thời,

Trộm lấy Âm Dương Tạo Hóa cơ.

Âm Phù Kinh viết: Thực kỳ thời, Bách hài lý; Đạo kỳ cơ, Vạn hóa an 食 其 時 百 骸 理 盜 其 機 萬 化 安 (Mỗi khi ta uống ăn, cơ thể được điều lýù, Ăn trộm được Huyền cơ, Vạn biến sẽ an toàn).

Thế nào là Huyền Cơ?

Thiên căn Lý cực vi, 天根 理 極 微

Kim niên sơ tận xứ, 今 年 初 盡 處

Thời nhật khởi đầu thì,            時 日 起 頭 時

Thử tế dị đắc ý, 此 際 易 得 意

Kỳ gian nan hạ từ. 其 間 難 下 詞

Nhân năng tri thử ý, 人 能 知 此 意

Hà sự bất năng tri? 何 事 不 能 知

Thiên căn Lý rất sâu,

Năm nay vừa sơ động,[15]

Năm tới dã bắt đầu,

Biên tế ấy rất dễ hiểu,

Nhưng khó nói nên lời

Nếu ai hiểu ý đó,

Thì gì mà không hiểu?

Biên tế ấy chính là Chân Cơ, diệu xứ vậy.

Kinh Chu Dịch đã hiểu rõ Chân Cơ vi diệu ấy, mà hiểu rõ Chân cơ vi diệu của Chu Dịch là quẻ PHỤC. Hiểu rõ Vi Diệu quẻ PHỤC chính là Hào Sơ.

Cho nên mới nói: Phục kỳ kiến Thiên Địa chi tâm hồ? 復 其 見 天 地 之 心 乎 ?

Phục rồi, được thấy Thiên Tâm,

(Vì lòng Trời Đất cũng trong lòng Trời.)

Vì trong giờ phút ấy, một Dương trở lại trong Trời Đất, mà Trời Đất trong ta cũng như vậy, trong thì ta sẽ Thái Thủ được Dương Khí trong thân ta, thế là ăn trộm được Dương khí Trời Đất, thì Dương khí đó há chẳng hoàn nạp vào trong thân ta, để trở thành Dược Vật hay sao?

Thiên Địa tuy lớn, tạo hóa tuy thần diệu, nhưng cũng không vượt ra ngài cái Phát Cơ này, Đó là lẽ tự nhiên vậy.

Nếu con người biết lẽ Thiên Nhân Hợp Phát này, mà nửa đêm tĩnh tọa, ngưng thần tụ khí,[16] thu thị, phản thính (tức là biết Nội Quan), ngậm miệng không nói, trúc cố Đơn Điền, một niệm không sinh, vạn duyên đốn tức. Hỗn hỗn, độn độn, như Thái Cực chưa phân, minh minh, chỉ chỉ như Lưỡng Nghi chưa manh nha, lặng lẽ riêng còn, như vực sâu lồng bóng nguyệt. Tịch nhiên bất động, như nước trong không sóng. Trong chẳng biết có thân, ngoài không biết có vũ trụ. Đợi cuối giờ Hợi, đầu giờ Tí, Dương khí Trời Đất sẽ đến, thì phải cấp tốc thái thủ. Nếu nó chưa đến thì cứ Hư Tâm mà chờ không được ra tay trước.

còn tiếp >>>>


Tin liên quan

Chia sẻ bài viết: 



Bình luận:

Hỗ trợ trực tuyến

Lê Công

0369.168.366

Nhà đất bán theo tỉnh thành
Nhà đất cho thuê theo tỉnh thành
Kinh Dịch
Tử vi
Huyền không Phi Tinh
Văn Hóa_Tín Ngưỡng
Thước lỗ Ban
Xen ngày tốt
Đạo Học
TIN NỔI BẬT

LÊ LƯƠNG CÔNG

Trụ sở: Số 31 - Mương An Kim Hải - Kenh Dương, Le Chan, Hai Phong

Tel: 0369168366 - Hotline: 0919.168.366 - Email: nhadatcongminh@gmail.com

Copyright © 2019 https://leluongcong.com/