M. ĐÀO HOA
Đào Hoa: chính là nơi Mộc Dục của Ngũ Hành, nên an như sau:
1. Thân, Tí, Thìn: Đào Hoa an ở cung Dậu (vì Tràng Sinh của Cục Thân Tí Thìn là Thủy khởi ở Thân nên Mộc Dục ở Dậu).
2. Dần, Ngọ, Tuất: Đào Hoa an ở cung Mão.
3. Tỵ, Dậu, Sửu: Đào Hoa an ở cung Ngọ.
4. Hợi Mão Mùi: Đào Hoa an ở cung Tí.
Chúng ta nên biết Hành khí Mộc Dục là biểu tượng cho sự non nớt, thời điểm manh nha nhập nhoạng chưa rõ, ham muốn bồng bột, nên cổ nhân đặt ra sao Đào Hoa làm biểu tượng. Đào Hoa còn có tên là Hàm Trì, và Đào Hoa (Hàm Trì) an từ Thân Tí Thìn vì cung Dậu thuộc Quẻ Đoài là (đầm) Hàm Trì. Đạo giáo cho rằng ở phương Tây có hàm trì là ao tắm của tiên nữ của bà Vương Mẫu. Phái nam không được đến gần, nếu không sẽ chìm ngập trong dục tình.
N. HOA CÁI
Hoa Cái: là Mộ khố của Hành khí tuổi, như tam hợp Thân Tí Thìn Tràng Sinh khởi ở Thân Mộ ở Thìn (Hoa Cái). Hoa Cái an như sau:
1. Thân Tí Thìn: Hoa Cái an ở cung Thìn.
2. Dần Ngọ Tuất: Hoa Cái an ở cung Tuất.
3. Tỵ Dậu Sửu: Hoa Cái an ở cung Sửụ
4. Hợi Mão Mùi: Hoa Cái an ở cung Mùi.
Tào Chấn Khuê nói rằng: Hoa Cái là ngôi vị Tuế Quân an cư, vì vậy dùng thời Mộ của tam hợp Ngũ Hành Mộ là Thổ vậy". Đại để Hoa Cái là "lỗ bộ đại giá" tức ngày xưa khi vua đi ra ngoài, chỗ nghĩ ngơi, thì trước sau có đội nghi trượng, phướng lọng rợp trời. Hoa Cái tượng là "lọng" che thân, tức là vừa che mưa nắng, vừa tạo bóng mát, và còn làm tăng phần cao sang, đẹp đẽ nữa.
O. KIẾP SÁT
Biết rằng Kiếp Sát là sao Tuyệt của Hành khí Cục tuổi, nên ta an Kiếp Sát như sau:
1. Tuổi Thân Tí Thìn: (Thủy) Kiếp Sát an ở cung Tỵ, Thủy tuyệt ở Tỵ vì bị Mậu (Thổ) khắc chết, nên Kiếp Sát ở Tỵ là Hành Thủy.
2. Tuổi Tỵ Dậu Sửu: Kiếp Sát an ở cung Dần; Tỵ, Dậu, Sửu là Kim tuyệt ở cung Dần vì Bính (Hỏa) ở trong Dần khắc chết.
3. Tuổi Dần Ngọ Tuất: Kiếp Sát an ở cung Hợi, Dần, Ngọ, Tuất là Hỏa bị Nhâm (Thủy) ở Hợi khắc chết.
4. Tuổi Hợi Mão Mùi: Kiếp Sát an ở cung Thân, Kiếp Sát an ở Thân là Hành Mộc. Vì khởi Tràng Sinh của Hành khí tam hợp Địa Chi (tam hợp tuổi) là Mộc từ cung Hợi thì khí Tuyệt (giết chết hay Kiếp Sát) ở cung Thân nên Kiếp Sát an ở đó. Bởi lẽ Hành Mộc đến cung Thân gặp Canh Kim nên bị khắc chết.
"Thần Khu Kinh" nói rằng: "Kiếp Sát là Âm Khí của Tuế. Chủ có sát hại, trộm cướp, tổn thương".
P. HỎA TINH, LINH TINH
Xưa nay không biết Nguyên Lý Hỏa Linh an làm sao, ai cũng chỉ ghi lại mà thôi, nhưng khi đoán số đều thấy đúng (cũng có thể có trường hợp sai mà tôi chưa thấy qua). Riêng cụ Vu Thiên có giải thích sơ lược như sau:
"Hỏa Linh không thể là một định tinh như các sao Đầu Ngưu Khuê Nữ được... vì vận hành thuận nghịch nhau. Kết cục hai sao nầy chỉ có thể lấy căn nguyên ở hành tinh... có 2 sao gần ta nhất là Kim Tinh (Venus) tức sao hôm, và Hỏa Tinh (Mars) mà thôi.
Xét về vận hành các sao nầy thì ta thấy có thể rất phù hợp với 2 sao Linh Hỏa ở chỗ có chu kỳ là bội số của 4. Đi hết 4 năm Hỏa Linh lại trở về chỗ cũ. Kim Tinh xoay quanh mặt trời 88 ngày 1 vòng, tức khi quả đất xoay 1 vòng, Kim Tinh đi 4 vòng, còn Hỏa Tinh thì xoay quanh mặt trời 2 năm 1 vòng...
Dù vậy chúng ta cũng chưa nên quả quyết giả thuyết ấy là đúng; vì muốn vậy ta cần phải biết rõ Thiên văn học đời xưa và tính lại cho kỹ các trường hợp đã".
Cụ Vu Thiên rất thành thật và thẳng thắn, Tâm luôn rộng mở không chấp chặt vào định kiến của mình. Thật là bậc Thầy đáng kính!
1. Cách an của Cụ Vu Thiên:
- Dần Ngọ Tuất nhân SỬU (Hỏa) MÃO (Linh) phương
- Thân Tí Thìn nhân DẦN (Hỏa) TUẤT (Linh) trường
- Tỵ Dậu Sửu nhân TUẤT (Hỏa) MÃO (Linh) vị
- Hợi Mão Mùi nhân DẬU (Hỏa) TUẤT (Linh) đương.
Cách này xem thì rất có lý, nhưng cá nhân tôi áp dụng thấy không đúng, nên đã theo cách an truyền thống như sau đây:
2. Hỏa Tinh và Linh Tinh: an theo GIỜ sinh; Hoả thuận, Linh nghịch cho Dương nam, Âm nữ, và an Hỏa nghịch, Linh thuận cho Âm nam, Dương nữ theo cung căn của bài thơ sau đây:
- Dần Ngọ Tuất nhân SỬU (Hỏa) MÃO (Linh) phương
- Thân Tí Thìn nhân DẦN (Hỏa) TUẤT (Linh) trường
- Tỵ Dậu Sửu nhân MÃO (Hỏa) TUẤT (Linh) vị
- Hợi Mão Mùi nhân DẬU (Hỏa) TUẤT (Linh) đương.
Thí dụ: Dương nam, Giáp Thìn, sinh giờ Thìn: thì bắt đầu từ cung Dần đếm THUẬN đến cung Ngọ là giờ Thìn an Hỏa Tinh; từ cung Tuất đếm NGHỊCH đến cung Ngọ an Linh Tinh.
Dương Nữ, Giáp Thìn, sinh giờ Thìn: thì bắt đầu từ cung Dần đếm NGHỊCH đến cung Tuất là giờ Thìn an Hỏa Tinh; từ cung Tuất đếm THUẬN đến cung Dần là giờ Thìn an Linh Tinh.
Đại khái thì có hai cách an như đã nói ở trên, và đa số sách theo cách thứ 2. Có vài cách khác như Hỏa Linh không an theo giờ... thấy không đúng, nên không viết ra đây. Nếu các bạn không thỏa mãn, nên bỏ thời gian nghiên cứu thêm. Sỡ dĩ tôi không bỏ nhiều thời gian nghiên cứu về Nguyên Lý của hai sao này, vì nó không phải là loại Thần Sát được dựng lập lên theo Thần Sát Khởi Lệ, mà có lẽ do người sáng lập ra Tử Vi đã áp dụng một phương thức khác theo Thiên Văn cũng nên, do đó không có đầu mối để khảo xét. Thành ra không thể lấy hiểu biết để suy lường, vì càng suy lường thì càng xa cái gốc. Do đó, tôi chỉ còn cách làm người thợ sửa xe. Thấy Hỏa Linh chạy êm chạy tốt, nên không đặt thêm vấn đề, vì tôi vốn không biết Nguyên Lý.
Thiển nghĩ đến đây chúng ta nên an các sao đáng nghi ngờ và có nhiều tranh cãi, ngỏ hầu chúng ta có thời gian để suy ngẫm và an định lại trước khi khóa học xong.
Q. THIÊN KHÔI, THIÊN VIỆT (An theo Can năm sinh)
Đa số các sách an: Giáp Mậu Canh Thiên Khôi ở Sửu, Thiên Việt ở Mùi; Ất Kỷ Thiên Khôi ở Tí, Thiên Việt ở Thân; Bính Đinh Thiên Khôi ở Hợi, Thiên Việt ở Dậu; Nhâm Quý Thiên Khôi ở Mão, Thiên Việt ở Tỵ; và Tân Thiên Khôi ở Dần, Thiên Việt ở Ngọ.
Cách an Khôi-Việt nhiều sách nói khác nhau, có sách để Canh chung với Tân, và Giáp Mậu đi chung với nhau. Cho thấy nhiều nhà viết sách cũng tự chẳng thông hết nguyên lý chăng? Nhiều sách Việt Nam không biết dựa vào đâu lại để tuổi Canh-Tân Khôi ở Ngọ Việt ở Dần, thấy không hợp lý chi hết. Còn lại hầu như tất cả sách đều an Khôi-Việt như trên, nhưng an như thế thực chất vẫn là an sai thôi.
Tuy xưa nay rất nhiều người bài xích nhau về cách an Khôi-Việt, nhưng thực tình chưa có mấy người biết nó do đâu mà có và đủ sức giải thích về nguyên lý, tại sao phải an Khôi Việt như đã an cả.
Duy xưa nay, chỉ thấy "Thông Thư" biện minh rõ Nguyên Lý an Khôi Việt nên dẫn ra để mọi người xem cho biết. Sách ấy nói rằng: Quách Cảnh Thuần lấy mười Can thì Quý Nhân là đứng đầu cát thần, hết sức tĩnh mà có thể chế ngự mọi chỗ động, chí tôn mà có thể trấn được phi phù; cho đến là Khôn, hoàng trung cũng thông lý. Chính là cái đức của Quý Nhân. Ấy là Dương Quý Nhân xuất ra ở Khôn Tiên Thiên mà đi thuận, Âm Quý Nhân xuất ra ở Khôn Hậu Thiên mà đi nghịch Đức của Thiên Can, Mùi đủ là Quý, mà hợp khí của Can đức chính là Quý vậy.
Tiên Thiên quẻ Khôn tại chính Bắc, Dương Quý khởi ở Khôn Tiên Thiên, vì thế theo Tí khởi Giáp. Giáp Đức tại Tí, khí hợp ở Kỷ vì thế Kỷ lấy Tí làm Dương Quý, theo thứ tự mà thuận hành.
Ất Đức tại Sửu, khí hợp ở Canh (nên Canh lấy Sửu làm Dương Quý); Bính Đức tại Dần, khí hợp ở Tân (nên Tân lấy Dần làm Dương Quý), Đính Đức tại Mão, khí hợp ở Nhâm (nên Nhâm lấy Mão làm Dương Quý).
Thìn là Thiên La, Quý Nhân không ở. Vì thế Mậu vượt qua tới Tỵ khí hợp với Quý (nên Quý lấy Tỵ làm Dương Quý).
Ngọ với ngôi vị của Khôn ở Tiên Thiên đối nhau, tên gọi là Thiên không dùng Quý Nhân, có độc mình là vô đối vì thế Dương Quý Nhân không nhập ở Ngọ.
Kỷ Đức tại Mùi, khí hợp với Giáp (nên Giáp lấy Mùi là Dương Quý); Canh Đức tại Thân, khí hợp ở Ất (nên Ất lấy Thân làm Dương Quý); Tân Đức tại Dậu, khí hợp ở Bính (nên Bính lấy Dậu làm Dương Quý.
Tuất là Điạ Võng, Quý Nhân không ở. Vì thế Nhâm vượt qua tới Hợi, khí hợp ở Đinh (nên Đinh lấy Hợi làm Dương Quý.
Tí ở Khôn vị, Quý Nhân không tái cư, vì thế Quý Vượt Qua tại Sửu, khí hợp ở Mậu (nên Mậu lấy Sửu làm Dương Quý). Đó là khởi lệ Dương Quý.
Khôn ở Hậu Thiên tại Tây Nam, Âm Quý Nhân khởi ở Khôn Hậu Thiên, vì thế theo Thân khởi ở Giáp, Giáp Đức tại Thân, khí hợp ở Kỷ vì vậy Kỷ lấy Thân làm Âm Quý Nhân. Cứ theo thứ tự mà nghịch hành. Ất Đức tại Mùi, khí hợp Canh; Bính Đức tại Ngọ, khí hợp Tân; Đinh Đức tại Tỵ, khí hợp Nhâm.
Thìn là Thiên La, Quý Nhân không ở. Vì thế Mậu vượt qua tới Mão, khí hợp ở Quý.
Dần ở ngôi của Khôn Hậu Thiên tên gọi là Thiên không dùng Quý Nhân, chỉ độc có một mình không đối, vì vậy Âm Quý Nhân không ở Dần.
Kỷ Đức tại Sửu, khí hợp với Giáp; Canh Đức tại Tí, khí hợp với Ất; Tân Đức tại Hợi, khí hợp ở Bính.
Tuất là Địa Võng, Quý Nhân không ở. Vì thế Nhâm vượt qua tới Dậu, khí hợp ở Đinh.
Thân là Khôn Vị, Quý Nhân không tái cư. Vì thế Quý vượt qua tới Mùi, khí hợp ở Mậu. Đó là khởi lệ Âm Quý Nhân".
Khảo Nguyên nói rằng: "Họ Tào với Thông Thư hai thuyết đều có nghĩa. Nhưng họ Tào thời lấy Dương là Âm, lấy Âm là Dương. Thế nên Dương thuận Âm nghịch, Dương trước Âm sau, đó là lý tự nhiên vậy nên lấy khởi từ Mùi mà đi thuận là Dương; khởi từ Sửu mà đi nghịch là Âm, mới nói là an Quý Nhân. Can Đức là hợp Phương với Thân, tại sao không dùng Can Đức mà còn dùng Can nào cho hợp? Đức là Thể, hợp thời dùng nó, hợp Can của Đức, chỗ đó dùng tất đại cát. Vì thế lấy tên là Quý Nhân. Luận về hợp Phương khảo xét lịch thư chỗ chép đầy đủ rõ ràng vậy, mà Tào Chấn Khuê Âm Dương thuận nghịch đảo lộn sự sắp đặt vậy, thời thế tục đều như thuyết đó. Khảo xét căn nguyên của nó, thời lấy "Huyền Nữ Kinh" có ghi thành văn là sáng đại cát, tối tiểu cát. Như thế lý nầy rất không thể thông, thời cũng chẳng lấy được "Huyền Nữ Kinh" có lời văn nầy mà có thể vội vàng tin được. Còn về hai chữ đại, tiểu dễ lẫn lộn với giả. Biết đâu không phải là người học nông cạn - đem chuyển đổi cắt xén tục thuyết, cải đổi "Huyền Nữ Kinh", bèn truyền khắc sâu vào rập theo chỗ nhầm cũ ư? Cho đến chỗ phân biệt ngày đêm, thời hoặc lấy Mão Dậu làm giới hạn, hoặc lấy mặt trời xuất nhập làm giới hạn. Nay khảo lại nghĩa nầy, tự lấy theo mặt trời xuất nhập làm định vậy".
Nên Khôi Việt an như sau:
Can -- Khôi - Việt
Giáp Mùi Sửu
Ất Thân Tí
Bính Dậu Hợi
Đinh Hợi Dậu
Mậu, Sửu Mùi
Kỷ Tí Th ân
Canh Sửu Mùi
Tân Dần Ngọ
Nhâm Mão Tỵ
Quý Tỵ M ão
Đây là cách an Khôi Việt theo "Thông Thư". Tuy nhiên, các bạn không nhất thiết phải tin tôi vì thực tế kiểm nghiệm mới là Chân Lý! Các bạn thấy sách "Khảo Nguyên" đã nói rõ, cổ nhân vẫn viết sách sai nhầm thường xuyên, cho nên chúng ta cần phải biết Nguyên Lý của các sao mới là chắc nhất thôi. Nhiều năm nay tôi đã hứa sẽ viết ra để độc giả xem cho biết, nhưng đến nay lớp Tử Vi lại được xem trước.
R. THIÊN QUAN VÀ THIÊN PHÚC (An theo Can năm sinh)
Hai sao này năm 1999 tôi có viết báo, và tháng 3 năm Nhâm Ngọ tôi là người đầu tiên đề xuất việc an sai của các sách Tử Vi trên net. Thiên Phúc và Thiên Quan đều an theo Thiên Can. Cổ nhân để lại cách an Thiên phúc như sau:
THIÊN PHÚC: Đại phúc tinh, chủ phúc lộc.
- Giáp ái kim Kê (Dậu) Ất ái Hầu (Thân).
- Đinh Trư (Hợi) Bính Thử (Tí) Kỷ Hổ (Dần) đầu.
- Mậu tầm ngọc Thố (Mão) Canh Nhâm Mã (Ngọ).
- Tân Quý phùng Xà (Tỵ) phúc lộc đa.
Cổ nhân đặt Thiên Phúc ở cung Thiên Can bị khắc vì ở trong cung ấy chủ có Lộc khắc ta. Thí dụ: Giáp (Mộc) ở Dậu (Tân Lộc Tồn ở Dậu khắc là Phúc của Giáp), Ất (Mộc) ở Thân (Canh), Bính (Hỏa) ở Tí (Quý), Đinh (Hỏa) ở Hợi (Nhâm), Mậu (Thổ) ở Mão (Ất), Kỷ (Thổ) ở Dần (Giáp), Canh (Kim) ở Ngọ (Đinh), Tân (Kim) ở Tỵ (Bính), Nhâm (Thủy) ở Ngọ (Kỷ Lộc ở Ngọ), Quý (Thủy) ở Tỵ (Mậu lộc ở Tỵ).
THIÊN QUAN: Đại phúc tinh, chủ hiển đạt phú quý. Thiên Quan theo tất cả sách đều an như sau, nhưng an như thế thì Kỷ, Tân, Nhâm không đúng vị, vì sai Nguyên Lý.
- Giáp Dương (Mùi) Nhâm Khuyển (Tuất) Ất Long (Thìn) nghi.
- Bính Xà (Tỵ) Đinh Hổ (Dần) Kỷ Tân Kê (Dậu).
- Mậu Thố (Mão) Canh Trư (Hợi) Qúy Mã (Ngọ) thương.
Kỳ nhân quý hiển khả tiên tri.
Thật ra, Cổ Nhân đã dùng cách khắc ta là Quan Lộc để đặt Thiên Quan, nghĩa là tính Thiên Can ở Dần khởi đi đến cung nào có Can khắc Can năm thì đặt ở đó, nên Thiên Quan phải an như sau:
- Giáp: Thiên Quan ở Mùi vì Giáp khởi ở Dần là Bính, Mão là Đinh, Mậu..., đến Mùi là Tân Mùi, Tân là Quan của Giáp, nên đặt ở Mùi.
- Ất: Thiên Quan ở Thìn vì Ất khởi ở Dần là Bính, Mão là Đinh, ở Thìn là Canh, Canh là Quan của Ất, nên đặt Thiên Quan ở Thìn.
- Bính: ở Tỵ vì khởi ở Dần là Canh, ... ở Thìn là Nhâm, ở Tỵ Quý Tỵ, Quý là Quan của Đinh, nên đặt Thiên Quan ở Tỵ.
- Đinh: khởi ở Dần là Nhâm, Nhâm là Quan của Đinh nên đặt Thiên Quan ở Dần.
- Mậu: khởi ở Dần là Giáp, ở Mão là Ất Mão, Ất là Quan của Mậu nên đặt Thiên Quan ở Mão.
- Kỷ: khởi ở Dần là Bính ... đến Dậu là Quý, ở Tuất là Giáp Tuất, Giáp là Quan của Kỷ nên đặt Thiên Quan ở Tuất. (Đáng tiếc tất cả các sách Việt Nam vì không hiểu nguyên lý cách an của cổ nhân nên đều an Kỷ ở Dậu. An như vậy là không đúng)!
- Canh: khởi ở Dần là Mậu, ở Mão là Kỷ,... đến Tuất là Bính, ở Hợi là Đinh Hợi, Đinh là Quan của Canh.
- Tân: khởi ở Dần là Canh, ở Mão là Tân, ... đến Thân là Bính, Bính là Quan của Tân nên đặt Thiên Quan ở đó. (Những sách an ở Dậu là không đúng nguyên lý).
- Nhâm: khởi ở Dần là Nhâm..., đến Dậu là Kỷ, Kỷ là Quan của Nhâm nên đặt Thiên Quan ở Dậu. (Những sách an ở Tuất là không đúng nguyên lý! Vì trong Tuất có Mậu nên xưa Thần Sát có an Thiên Phúc ở Tuất cho Can Quy, nhưng thống Nhất đều lấy Mậu ở Tỵ cả).
- Quý: khởi ở Dần là Giáp..., đến Ngọ là Mậu, Mậu là Quan của Quý nên an Thiên Quan ở Ngọ.
Đáng tiếc xưa nay những người học Tử Vi chỉ học những gì được để lại mà thôi. Hiếm người chịu khó nghiên cứu Nguyên Lý của các sao, nên lỡ người đi trước tam sao thất bổn thì, tất cả những người đi sau đành sai hết vậy. Đây là điều rất đáng buồn, may là Tử Vi hầu như tất cả Sao an đều đúng.
Hẳn sẽ có vị cho rằng Tử Vi an sao Quan Phúc khác hơn các môn khác, nhưng xin thưa các sách Tử Bình và các sách nói về Thần Sát (ngoài Tử Bình) đều an hai sao này giống y như Tử Vi, chỉ trừ 3 tuổi KỶ, TÂN, NHÂM an khác Tử Vi mà thôi. Tại sao thế? Hẳn là do sách Tử Vi tam sao thất bổn! (Thời nay chúng ta vẫn viết lộn đều, thì ai dám chắc sách xưa không viết lộn???). Hơn nữa, tất cả các Thần Sát trong Tử Vi được dựng lập lên từ Thần Sát Khởi Lệ thì đều giống nhau, chỉ trừ Thiên Trù có nhiều khác biệt. Đây là sao chúng ta cần lưu ý, và nên dùng thực tế kiểm nghiệm.
S. LƯU HÀ (An theo Can năm sinh)
Theo cụ Thiên Lương: "Lưu Hà là sát-tinh luôn luôn phối hợp với Kiếp Sát đóng thế gọng kìm như hai lưỡi kéo tử thần an theo hàng Can của tuổi đứng trái nghịch âm dương cứ hai tuổi một theo chiều thuận". Tức là theo Cụ thì Lưu Hà an như sau:
Giáp ở Dậu
Ất ở Tuất
Bính ở Mùi
Đinh ở Thân
Mậu ở Tỵ
Kỷ ở Ngọ
Canh ở Mão
Tân ở Thìn
Nhâm ở Hợi
Quý ở Dần
Trên đây là phần nghiên cứu của cụ Thiên Lương. Mặc dù Cụ an định lại, nhưng có lẽ Cụ đã dựa trên kinh nghiệm chứ không giải thích được dựa trên nguyên lý nào để ấn định lại, song chúng ta vẫn có thể hiểu rằng Cụ đem Tân để xung với Ất và để Giáp xung Canh, thuộc bản chất nguyên thủy của chúng. Điểm thứ hai, cụ cho rằng Canh, Lộc Tồn ở Thân là hợp vị trí Âm-Dương nên Lưu Hà không thể nằm chung với Lộc Tồn vậy. Nhưng nếu theo Cụ cho rằng: "an theo hàng Can của tuổi đứng trái nghịch âm dương cứ hai tuổi một theo chiều thuận". Thế thì tại sao Nhâm Quý không tiếp theo là Sửu Dần mà lại là Nhâm an ở Hợi bỏ cách tí sửu nhay đến Dần an Quý?
Nếu nghiên cứu kỹ thì thấy rằng Cổ Nhân lấy Ấn làm chỗ an cho Can Dương và lấy Thương Quan làm chỗ an cho Can Âm. Do đó, ta thấy Lưu Hà có thể an theo nguyên lý sau:
- Giáp khởi Bính ở Dần đến Dậu là Quý Dậu, Quý là Ấn của Giáp nên an Lưu Hà ở Dậu.
- Ất khởi Mậu ở Dần đến Tuất là Bính, Bính là Thương Quan của Ất nên an Lưu Hà ở Tuất.
- Bính khởi Canh ở Dần đến Mùi là Ất, Ất là Ấn của Bính nên an Lưu Hà ở Mùi.
- Đinh khởi Nhâm ở Dần đến Thân là Mậu, Mậu là Thương Quan của Đinh nên an Lưu Hà ở Thân.
- Mậu khởi Giáp ở Dần đến Tỵ là Đinh, Đinh là Ấn của Mậu nên an Lưu Hà ở Tỵ.
- Kỷ khởi Bính ở Dần đến Ngọ là Canh, Canh là Thương Quan của Kỷ nên an Lưu Hà ở Ngọ.
- Canh khởi Mậu ở Dần đến Mão là Kỷ, Kỷ là Ấn của Canh nên an Lưu Hà ở Mão.
- Tân khởi Canh ở Dần đến Thìn là Nhâm Thìn, Nhâm là Thương Quan của Canh nên an Lưu Hà ở Thìn.
- Nhâm khởi Nhâm ở Dần đến Hợi là Tân Hợi, Tân là Ấn của Nhâm nên an Lưu Hà ở Hợi.
- Quý khởi Giáp ở Dần, Giáp là Thương Quan của Quý nên an Lưu Hà ở Dần.
Lý luận và an định như trên khả dĩ thấy hợp lý và thỏa đáng cho tất cả các trường hợp. Vì là Nguyên Lý thì phải có thể áp dụng và thỏa đáng cho tất cả trường hợp. Tuy nhiên, dù lý luận của tôi hợp lý, vẫn chưa phải là tuyệt đối. (Xin các bạn hãy dùng thực tế kiểm nghiệm làm Chân Lý).
Xin nói thêm về sao Lưu Hà một chút. Có sách Thần Sát còn gọi là Lưu Bá, và cách an cũng giống y hệt như các sách Tử Vi Tàu và Ta, vẫn Can Canh an ở Thìn và Can Tân ở Mão, còn lại các Can khác thì giống như cách an định lại ở trên.
T. THIÊN TRÙ (An theo Can năm sinh)
Các sách Tử Vi an Thiên Trù như sau:
Giáp Đinh ở Tỵ
Ất Mậu Tân ở Ngọ
Bính ở Tí
Kỷ ở Thân
Canh ở Dần
Nhâm ở Dậu
Quý ở Tuất
Cách an này không có quy tắc và cũng không hề cho biết lý do, cứ vậy đời sau phải học như con vẹt. Cá nhân tôi không tin theo cách an này, vì khi đoán cho những người tuổi Giáp Ất thì rất đúng, mà các tuổi khác thì không. Cho dù không biết Nguyên Lý nhưng nếu đoán đúng như hai sao Linh Hỏa thì vẫn có thể tin và chấp nhận được, đằng này lại trái nghịch, làm sao mà tin.
Các sách Thần Sát đều an Thiên Trù như sau:
Giáp tại Tỵ
Ất tại Ngọ
Bính tại Tỵ
Đinh tại Ngọ
Mậu tại Thân
Kỷ tại Dậu
Canh tại Hợi
Tân tại Tí
Nhâm tại Dần
Quý tại Mão
Họ cho rằng: "Thiên Trù chủ về ăn uống, đăng khoa tiến cử, gặp may". Lý do vì Can gặp Thực Thần Lâm Quan gọi là Phúc, chủ may mắn và ăn uống. Ta thấy rõ Thiên Trù chính là Thực Thần Lâm Quan.
- Giáp lấy Bính làm Thực Thần, Bính Lâm Quan ở Tỵ nên an Thiên Trù ở đó.
- Ất lấy Đinh làm Thực Thần, Đinh Lâm Quan ở ngọ nên an Thiên Trù ở đó.
- Bính lấy Mậu làm Thực Thần, Mậu Lâm Quan ở Tỵ nên an Thiên Trù ở đó.
- Đinh lấy Kỷ làm Thực Thần, Kỷ Lâm Quan ở Ngọ nên an Thiên Trù ở đó.
- Mậu lấy Canh làm Thực Thần, Canh Lâm Quan ở Thân nên an Thiên Trù ở đó.
- Kỷ lấy Tân làm Thực Thần, Tân Lâm Quan ở Dậu nên an Thiên Trù ở đó.
- Canh lấy Nhâm làm Thực Thần, Nhâm Lâm Quan ở Hợi nên an Thiên Trù ở đó.
- Tân lấy Quý làm Thực Thần, Quý Lâm Quan ở Tí nên an Thiên Trù ở đó.
- Nhâm lấy Giáp làm Thực Thần, Giáp Lâm Quan ở Dần nên an Thiên Trù ở đó.
- Quý lấy Ất làm Thực Thần, Ất Lâm Quan ở Mão nên an Thiên Trù ở đó.
Một điều đáng chú ý là: các sách Tử Vi cổ thư, và các sách Tử Vi Việt Nam viết từ thời 40-60 thì không thấy có sao Thiên Trù, như vậy sao này hẳn phải là sao bổ túc sau này. Tuy nhiên, khi áp dụng vào số thấy đúng thì cứ lấy xài cũng là điều tốt, chẳng có gì đáng nói. Chỉ có điều cách an không đáng tin cậy là điều đáng nói.
Cá nhân tôi tin theo cách an Thiên Trù của các sách Thần Sát, không tin cách an theo sách Tử Vi. Theo tôi thì sách Tử Vi bị tam sao thất bổn! Các sách Thần Sát khi an có Nguyên Lý cụ thể, ý nghĩa rõ ràng, và đều là Thần Sát dựng lên từ trước Tử Vi. Bất kể môn nào khi dùng các Thần Sát thuộc nhóm Thần Sát Khởi Lệ thì đều giống nhau cả, luôn cả Tử Vi. Duy lâu lâu lại có vài sao Tử Vi có Can an giống mà Can an không giống các sách Thần Sát, và không có nguyên lý và quy tắc gì cả, nên giữa hai sự lựa chọn, tôi chọn Phép có Nguyên Lý. Hơn nữa, ta tra tất cả các Thần Sát thuộc nhóm Khởi Lệ thì Tử Vi an đều giống các sách kia, trừ vài sao như đã nói, nên tôi cho rằng sách Tử Vi bị viết sai! Tuy nhiên, các bạn hãy dùng thực tế kiểm nghiệm làm Chân Lý, chớ vội tin tôi.
U. KÌNH DƯƠNG, ĐÀ LA (An theo Can năm sinh)
Hai sao nầy bao giờ cũng kẹp sát nhau , An Kình Dương ở cung đằng trước cung đã an Lộc Tồn. An Đà La ở cung đằng sau cung đã an Lộc Tồn.
VD: Lộc Tồn ở Tý, Kình Dương an ở Sửu, Đà La an ở Hợi.
Lê Công
Chia sẻ bài viết:
LÊ CÔNG
0919.168.366
PHÚC THÀNH
0369.168.366
Một số cách an sao vòng Trường Sinh trong tử vi
TÍNH CÁCH, MẪU NGƯỜI, TRONG LÁ SỐ TỬ VI
7 nguyên tắc cơ bản sau cần phải xem kỹ trước khi bình giải một lá số Tử Vi
THẾ NÀO LÀ TUẾ PHÁ & NGŨ HOÀNG ĐẠI SÁT
BÍ QUYẾT SONG SƠN NGŨ HÀNH VÀ THẬP NHỊ THẦN ĐẠI PHÁP (TIÊU SA NẠP THỦY THEO THỦY PHÁP TRƯỜNG SINH)
Ý nghĩa của việc thờ bàn thờ Ông Địa
“BẢN GỐC” CỦA THƯỚC LỖ-BAN DÀNH CHO CÁC BẠN THẬT SỰ HAM MÊ PHONG THỦY !!!
LÊ LƯƠNG CÔNG
Trụ sở: Số 12, Trực Cát , Vĩnh Niệm, Lê Chân, Hải Phòng
Tel: 0919.168.366 - Hotline: 0919.168.366 - Email: nhadatcongminh@gmail.com
Copyright © 2019 https://leluongcong.com/