Kinh Dịch
15/08/2020 - 4:33 PMLê Công 1110 Lượt xem

Quẻ số 3  :  |:::|: Thủy Lôi Truân (屯 chún)

Quẻ Thủy Lôi Truân, đôi khi còn gọi là quẻ Truân (屯 chún) là quẻ số 03 trong Kinh Dịch

* Nội quái là ☳ (|:: 震 zhen4) Chấn = (雷) Sấm

* Ngoại quái là ☵ (:|: 坎 kan3) Khảm = (水) Nước

quẻ số 3 thủy lôi truân

Quẻ số 3  :  |:::|: Thủy Lôi Truân (屯 chún)

Quẻ này là quẻ Thủy Lôi Truân. Ba vạch dưới: Sơ đơn, Nhị sách, Tam sách, là quẻ Chấn ở dưới, Chấn là Nội Quái. Ba vạch trên: Tứ sách, Ngũ đơn, Thượng sách, là quẻ Khảm ở trên, Khảm là Ngoại Quái. Chấn là Lôi, Khảm là Thủy, thành ra quẻ Thủy Lôi Truân.

 TỰ QUÁI

 Tự quái: Hữu thiên địa dã, nhiên hậu vạn vật sinh yên, doanh thiên địa chi gian giả, duy vạn vật, cố thụ chi dĩ Truân. Truân giả doanh dã; truân dã, vật chi thỉ sinh dã.

序卦: 有天地也, 然後萬物生焉, 盈天地之間者, 惟萬物, 故受之以屯. 屯者盈也, 屯也, 物之始生也.

 Ý sắp đặt thứ tự quẻ. Trên đây quẻ Càn quẻ Khôn, là có trời có đất rồi. Có trời đất vậy sau vạn vật mới sinh nở. Đầy ở giữa khoảng trời đất, tất duy vạn vật, vậy sau quẻ Càn, Khôn tiếp lấy quẻ Truân. Truân nghĩa là đầy, truân nghĩa là lúc vạn vật mới sinh ra. Vì lúc bắt đầu vạn vật mới sinh ra còn chưa lấy gì làm hanh thái được, nên lại có một nghĩa Truân là khốn nạn. Bây giờ thích Soán từ của Văn Vương.

 SOÁN TỪ

 Truân, Nguyên, hanh, lị, trinh, vật dụng hữu du vãng, lị kiến hầu. 屯, 元亨利貞, 勿用有攸往, 利建侯.

 Quẻ Truân này, Ngoại Quái Khảm, Khảm là hiểm. Nội Quái Chấn, Chấn là động. Ở trong lúc hiểm mà hay hành động được, tất nhiên là hạng người có gan mạo hiểm, có chí tấn thủ, và có tài hữu vi. Đưa người ấy ra giúp đỡ buổi truân, có lẽ hanh thông lắm, nhưng vì theo về thời thế thời đương buổi truân nạn nên lại phải cẩn thận kĩ càng, đại đởm mà lại phải thường giữ tiểu tâm, nên bền giữ đức trinh mà chẳng nên vội vàng khinh tấn. Vãng nghĩa là tấn hành.

Tuy nhiên, một người có tài đức, mà gặp buổi thiên hạ đương truân, không lẽ chẳng ra cứu đời, nhưng muốn cứu đời không lẽ một sức mình mà làm xong, tất phải nhờ nhiều người bạn hiền giúp đỡ. Nói về việc quốc gia, tất phải nhờ hiền thần phụ bật. Suy ra việc xã hội cũng thế, nên có câu: Lị kiến hầu. Lị nghĩa là nên; kiến nghĩa là dựng đặt; hầu nghĩa là tước hầu.

Chữ hầu này chỉ vào Sơ Cửu. Bởi vì Sơ Cửu có đức dương cương, làm chủ nội Chấn, là một người chủ yếu ở trong trường chấn động có tượng làm được hầu.

Quẻ Chấn nguyên đầu là quẻ Khôn, vì Sơ dương đổi vào thành ra Chấn nên hào Sơ là thành quái chi chủ.

 PHỤ CHÚ: Chữ Hầu ở quẻ này là vì khi Văn Vương làm Dịch đương ở đời còn có chế độ phong kiến. Nếu chẳng phải hầu, thời không có thế lực mà gánh nổi việc. Tỉ như: Tề Hầu là Hoàn Công, Tấn Hầu là Văn Công, thảy có tài làm nên nghiệp bá, xây đổi được cuộc đời, chẳng qua đương thì phong kiến thời nói thế vậy. Bây giờ chúng ta chẳng phải ở vào đời phong kiến, thời lãnh tụ ở trong một đảng hoặc tổng trưởng ở trong đám ủy viên cũng có thể thay được chữ hầu, chỉ cốt hạng người có tài đức đủ tế truân là gọi bằng hầu được cả. Ilễ học Dịch nên lấy ý mà suy cho thông, chớ nên câu nệ ở chữ.

 SOÁN TRUYỆN

 Soán viết: Truân, cương, nhu thỉ giao nhi nạn sinh. Động hồ hiểm trung, đại hanh trinh. Lôi vũ chi động mãn doanh, thiên tạo thảo muội, nghi kiến hầu nhi bất ninh. 彖曰: 屯, 剛柔始交而難生. 動乎險中, 大亨貞. 雷雨之動滿盈, 天造草昧, 宜建侯而不寧.

Truân: Cương, nhu thỉ giao, nhi nạn sinh.

 Soán Truyện thích ý nghĩa Soán từ của Văn Vương rằng: Quẻ Truân này tiếp ở sau Càn, Khôn. Trên kia Càn là quẻ thuần cương, Khốn là quẻ thuần nhu. Cương, nhu chia làm hai đường là cương, nhu chưa giao. Bây giờ vào quẻ Truân, quẻ dưới một hào cương, hai hào nhu, quẻ trên cũng một hào cương, hai hào nhu; thế là cương, nhu bắt đầu giao với nhau, nhưng vì lúc bắt đầu mới có vạn vật, xử vào thời đại ấy, công việc sinh dục hãy còn gian nan lắm. Vậy nên đặt tên quẻ bằng Truân.

Động hồ hiểm trung.

 Đây chỉ nói về tượng quẻ. Quẻ dưới Chấn là động, quẻ trên Khảm là hiểm. Khảm trên, Chấn dưới, thành quẻ Truân. Thế là phát động ở giữa chốn hiểm.

Đại hanh trinh.

 Đây nói về đức quẻ. Đương giữa lúc hiểm mà hành động được, tất là người tài đức phi thường, nhưng trong khi làm được sự nghiệp phi thường tất lại kiên tâm trì chính luôn luôn, nên nói rằng: Đại hanh trinh, nghĩa là vẫn đại hanh, nhưng phải trinh mới được.

Lôi vũ chi động mãn doanh.

 Đây là theo tượng quẻ mà thích cho hết nghĩa chữ Truân. Chấn Nội Quái là tượng sấm, Khảm Ngoại Quái là tượng mưa. Hễ âm dương hòa hợp, âm điện, dương điện tiếp xúc với nhau, mới thành mưa, sấm. Ở giữa lưỡng gian, chỉ thấy động cơ dầy dặc, tuy là lúc Truân mà chính là cơ hội tốt của trời đất vậy (Mãn doanh nghĩa là đầy tràn, cũng là thích nghĩa chữ Truân).

 5.Thiên tạo thảo muội, nghi kiến hầu nhi bất ninh.

 Đây là thích riêng nghĩa câu Lị kiến hầu.

Thiên tạo nghĩa là vận trời; thảo nghĩa là hỗn tạp; muội nghĩa là tối mờ. Bốn chữ ấy là hình dung cái tượng thì đương truân nạn.

Thánh hiền hào kiệt xử vào địa vị ấy, tất không thể nằm cao an nghỉ, tất phải đa phương cầu trợ, tìm cho được người giúp đỡ với mình mới thành được công việc tế Truân, ấy là nên kiến hầu, mà chẳng nên an ở vô sự (Ninh nghĩa là an ở).

 ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN

 Tượng viết: Vân lôi Truân, quân tử dĩ kinh luân. 象曰: 雲雷屯, 君子以經綸.

 Khảm tượng là vân, Chấn tượng là lôi. Theo hai tượng ấy thời chỉ thấy mây, nghe sấm mà chưa thấy mưa. Cơ trời còn ở trong lúc sắp đặt un nấu nên gọi bằng Truân. Tượng vào việc người thời là xử vào đời truân nạn, thiên hạ vẫn đương mong trị mà cuộc loạn còn chưa dẹp xong.

Quân tử xử vào thời đại này, xem tượng ấy mà biết rằng: Mây có rồi, sấm có rồi, thế nào cũng đến ngày mưa tới.

Đời đương truân nạn, chính là thì tiết hữu vi của mình, thời phải đem tài đức của mình ra mà kinh luân việc thiên hạ.

Kinh luân, nghĩa là: sắp đặt sửa sang, ví như trong việc dệt tơ, chỉnh lí ra đường ngang, sợi dọc, kết hợp tất thảy sợi tơ mà tổ chức cho thành một tấm, ấy là nghĩa chữ kinh luânKinh nghĩa là phân cho ra từng sợi, luân nghĩa là dệt thành tấm. Tỉ như, để tổ chức cho thành một đoàn thể, kiến thiết cho được một quốc gia, xã hội, tuy lớn, nhỏ có khác nhau, tất thảy phải có tài kinh luân mới làm được.

 HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN

Sơ Cửu: Bàn hoàn, lị cư trinh, lị kiến hầu.初九: 盤桓, 利居貞, 利建侯.

 Cửu là dương hào, Sơ là vị ở dưới hết, hào dương thời sẵn tài có cương minh, vẫn là người có thể tế Truân, nhưng vì còn ở hạ vị thời chưa tấn hành được; tài tuy đủ hữu vi, chí tuy muốn hữu vi, nhưng vì cảnh ngộ bắt buộc mình, nên đi đứng ra hình khó khăn, muốn lên, nhưng mà cứ dùng dằng. Tuy thế, há phải quyết chẳng tấn hành đâu, chỉ chập chững lựa thì mà thôi.

Tuy nhiên, lí trong thiên hạ, đã có như lời Đức Khổng nói rằng: Bất hoạn vô vị, hoạn sở dĩ lập 不患無位,患所以立.

Người ta xử vào thời đại Sơ Cửu, chỉ nên lo tấn đúc tu nghiệp, tự xử lấy đức trinh. Tài đức đã được như Sơ Cửu mà thiên hạ lại đương thì Truân, ai chịu để những bạng người ấy nằm không đâu! Tất nhiên cũng gặp bậc thánh minh đặt mình lên ở vị tế truân.

Chữ hầu ở đây cũng là chữ hầu ở Soán từ, là nhằm bảo: Tài đức như Sơ Cửu nên tiến cử lên làm hầu vậy.

 Tượng viết: Tuy bàn hoàn, chí hành chính dã. Dĩ quý há tiện, đại đắc dân dã. 象曰: 雖盤桓, 志行正也以貴下賤, 大得民也.

 Tuy vì thời thế mà phải bàn hoàn nhưng tâm sự của mình vẫn đi một đường chính vậy. Sở dĩ Hào từ lại có câu lị kiến hầu, bởi vì trong quẻ Truân này, toàn sáu hào, chỉ có hai hào dương, còn bốn hào thảy âm. Dương là quý, âm là tiện. Sơ là dương quý, mà chịu ở dưới bốn hào âm, tượng như người có tài đức đáng quý, mà chịu lún với hạng người đức tài hèn mọn. Người mà quên hết tài đức của mình, chịu ti hạ với quần chúng, đức thịnh lệ cũng được như thế, đặt lên làm hầu, tất nhiên thiên hạ ai cũng hân duyệt mà theo mình vậy.

 PHỤ CHÚ: Lời Tượng hào này tỉ như người đời xưa chính như ông Chu Công một bận ăn ba lần nhổ cơm, một lúc gội đầu ba lần nắm tóc dậy để gấp tiếp kiến sĩ phu trong thiên hạ. Ngụy Vũ Đế có câu: Chu Công thổ bô, thiên hạ quy tâm 周公吐晡天下歸心..

Lại như: Vua Quang Trung nước ta, bắt được thầy tớ vua Gia Long là ông Nguyễn Huỳnh Đức, dắt lên nằm ngủ với mình một giường, đó cũng tượng như hào này.

Lục Nhị: Truân như, chiên như, thừa mã ban như, phỉ khấu, hôn cấu, nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự.六二: 屯如, 邅如, 乘馬班如. 匪鬼, 婚媾, 女子貞不字, 十年乃字.

 Lục là hào âm, Nhị là vị âm. Nhị lại ở giữa Hạ Quái, thế là một hào âm nhu vừa đắc trung vừa đắc chính. Tượng như một người con gái, tài đức phẩm hạnh đáng được một người chồng rất tốt, mà lại ở trên có Cửu Ngũ dương cương đắc trung, đắc chính, tượng là một người chồng chính đáng của Lục Nhị, nhưng vì ở về thời đại Truân là nhân sự còn bế tắc bất thông. Huống hồ kề cạnh mình có Sơ Cửu là một hào dương cương cũng muốn làm thân với Lục Nhị, vì Nhị e né Sơ, tuy đành Sơ chẳng phải chính ứng với mình mà hoàn cảnh lôi thôi. Nếu Sơ là một tay cường bạo, thời thân mình thể nhu, chất nhược e khó ứng phó cho được lưỡng toàn. Vì thế nên tình hình Lục Nhị tấn giả nan, thối giả nan, ra một cách khốn đốn khó khăn, tượng như người cưỡi ngựa muốn tới mà dùng dằng luẩn quẩn không dám tới.

Thánh nhân lúc bấy giờ mới vẽ một phương châm cho Lục Nhị rằng: Anh Sơ kia cũng vẫn người tốt, sở dĩ thân cận với Nhị, chẳng phải là tay cướp đâu, chỉ là cầu kết hôn với Nhị mà thôi. Nêu bản thân Nhị thiệt là con gái trinh chính, thời khăng khăng giữ mực, chờ người chính ứng với mình là Cửu Ngũ, chẳng chịu gả mình cho Sơ Cửu. Lòng mình kiên cố, cùng cực tất thông, dầu lâu chăng nữa cũng mười năm mà thôi, bạn tri kỷ tìm tới mình, thời mình tất là vợ chính đáng của Cửu Ngũ.

Chiên nghĩa là quanh quẩn; ban nghĩa là dùng dằng; phỉ khấu nghĩa là chẳng phải giặc; hôn cấu nghĩa là cầu làm vợ chồng; tự nghĩa là con gái gả lấy chồng.

Hào này chỉ là thủ tượng bằng nam nữ tương cầu. Suy ra thầy trò bạn hữu kết hợp với nhau cũng thảy như thế. Nếu chẳng phải đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, thật một người chính giao với mình thời chớ nhẹ dạ non lời mà mắc phải lỗi thất tiết.

Tỉ như: Ông Khổng Minh đời Tam Quốc: Tào Tháo, Tôn Quyền rước ông mà ông chẳng dậy, chờ đến Lưu Tiên Chúa ba lần rước ông, ông mới chịu ứng sính. Đó chính là nghĩa câu nữ tử trinh bất tự, thập niên nải tự.

 Tượng viết: Lục Nhị chi nạn, thừa cương dã, thập niên nải tự, phản thường dã. 象曰: 六二之難, 乘剛也, 十年乃字, 反常也.

 Cảnh ngộ Lục Nhị sở dĩ khốn nạn, là vì ở trên Sơ Cửu, tượng như cưỡi hào dương cương vậy. Nhưng Lục Nhị kiên trinh giữ tiết cố chờ được kẻ tri kỉ của mình, tuy vẫn có bức cận với Sơ mà cuối cùng vẫn kết hợp với Cửu Ngũ.

Xưa nay minh quân, hiền tướng, trinh nữ, lương phu tất nhiên gặp gỡ nhau, đó là lẽ thường. Thập niên nãi tự là quay trở lại lẽ thường đó vậy.

Phản nghĩa là quay trở lại; chẳng phải phản nghĩa là trái.

Lục Tam: Tức lộc vô ngu, duy nhập vu lâm trung, quân tử cơ bất như xá, vãng lẫn. 六三: 即鹿無虞, 惟入于林中, 君子幾不如舍, 往吝.

 Lục là âm hào, Tam là dương vị. Âm cư dương vị là bất chính, Tam lại bất trung. Tính chất vẫn đã bất chinh bất trung, lại ở vào thời đại Truân mà người ứng với mình là Thượng Lục cũng âm nhu, không thể ứng với Tam được, tượng là một người tài hèn sức mọn, lại không thấy bạn dắt dìu cho mình, đáng lẽ lo độc thiện kì thân, chớ cầu cạnh với ai là phải, nhưng vì tính chất Tam bất trung, bất chính nên chẳng khỏi láu táu chạy càn, tượng như người tham ăn thèm thịt hươu, tự mình đi đuổi hươu. Vì không người thầy săn là ngu nhân dẫn đường cho nên hươu chẳng thấy đâu mà bị sụp vào trong rừng. Nếu Lục Tam mà là quân tử, thời tất nhiên thấy được khi còn cơ vi, chẳng gì bằng an nghỉ, đừng chạy càn. Nếu cứ chạy hoài, thiệt đáng xấu hổ.

 Tượng viết: Tức lộc vô ngu, dĩ tòng cầm dã, quân tử xá chi, vãng lẫn, cùng dã. 象曰: 即虎無虞, 以從禽也, 君子舍之, 往吝窮也.

 Tức lộc vô ngu, vì lòng tham muốn được cầm vậy. (Cầm là những giống sinh vật ở trong núi). Quân tử thời chỉ nên ở an địa vị, nếu cứ chạy càn, thời đến lúc cuối cùng chỉ xấu hổ mà thôi.

 PHỤ CHÚ: Hào từ, tượng từ chỉ là răn một hạng người táo tấn. Thâm ý tại bốn chữ tức lộc vô ngu. Hễ giữa mình đã tài hèn khôn cạn, học thức non kém, địa vị lại dở dang, thời nước bước đường đi nên chờ có thầy hay bạn tốt đem đường chỉ lối cho mình. Ví như săn hươu mà được ngu nhân làm thầy hướng đạo. Nếu chẳng thế, thời sụp vào giữa rừng, đến nỗi chẳng biết đường mà ra. Đó là vì tội đi càn, chẳng tránh khỏi được chữ lẫn.

Lục Tứ: Thừa mã ban như, cầu hôn cấu, vãng cát, vô bất lị. 六四: 乘馬班如, 求婚媾, 往吉, 無不利.

 Hào Lục ở vị Tứ, là âm nhu đắc chính. Tính chất vẫn là người hiền, nhưng vì tài mình âm nhu, lại gặp lúc thì Truân, không thể chỉ cậy sức mình mà tấn thủ được. Tuy thân cận với Ngũ nhưng Ngũ đã chính ứng với Nhị rồi. Tứ muốn thượng tấn mà sợ Ngũ chẳng cần dùng đến mình nên phải chập chững dùng dằng, muốn lên mà lên chẳng được, tượng như cưỡi ngựa mà dùng dằng chẳng dám tới.

Nguyên Tượng vẫn như thế, nếu Tứ là một người minh triết liệu nhân, liệu kỉ được rành rõi thời chớ nên cầu với Ngũ mà quay xuống cầu với Sơ, Sơ là hào cương minh có tài tế truân, lại có đức dĩ quý há tiện. Tứ cầu với Sơ, Sơ là chính ứng với Tứ, tất nhiên tâm đầu ý hợp, ấy là cầu được hôn cấu. Khi Sơ đã thuận ứng rồi, thời đề huề với nhau ra gánh việc cứu đời, tất làm nổi công việc, tới đâu cũng được như ý.

 Tượng viết: Cầu nhi vãng, minh dã. 象曰: 求而往, 明也.

 Tứ đã âm nhu vô tài, vẫn chẳng phải người tế Truân, nhưng vì có đức minh tri nhân, biết Sơ là bậc hiền tài, chịu khuất kỉ hạ hiền, lấy mình là bậc trên mà chịu hạ cầu với người dưới. Nhờ tài người làm nên việc mình, kết quả vãng cát, vô bất lị, đó là hiệu quả của đức minh vậy.

 PHỤ CHÚ: Xem Hào từ Tượng từ Lục Tứ nên xem cả Hào từ Tượng từ Lục Nhị, cũng là một hào Sơ muốn làm hôn cấu, nhưng Nhị thời bất tự với Sơ, Tứ thời vãng cầu với Sơ. Sở dĩ bất đồng như thế là có hai đạo lí. Một là duy hiền tri hiền , dương cương, trung chính như Cửu Ngũ, tất có âm nhu trung chính như Lục Nhị mới kết hợp với nhau, còn như Tứ, âm nhu bất trung nên chỉ hạ giao với Sơ là đúng, đó là một lẽ. Lại một đạo lí nữa là nhân dĩ loại tụ. Tứ là chính ứng với Sơ nên địa vị tuy cận với Ngũ mà phải cầu với Sơ; Nhị là chính ứng với Ngũ nên địa vị tuy cận Sơ, mà phải chờ Ngũ, chính như lời Đức Khổng nói: Đạo bất đồng, bất tương vi mưu 道不同, 不相爲謀, nghĩa là chẳng phải người đồng đạo với mình, chớ nên cùng nhau bàn việc, cũng như ý nghĩa hai hào này vậy.

Cửu Ngũ: Truân kì cao, tiểu trinh cát, đại trinh hung.九五: 屯其膏, 小貞吉, 大貞凶.

 Hào Cửu vị Ngũ, dương cương mà lại trung chính lại được ở vị tôn, đáng lẽ là việc gì cũng xong, nhưng vì ở về đời Truân nạn mà lại ở dưới có Sơ Cửu, cương minh tài cán thu được hết lòng dân, ví như minh quân tại thượng, mà hạ hữu quyền thần, bao nhiêu quyền bính bị quyền thần cướp ráo. Ngũ chỉ hư cư tôn vị, thành ra muốn tuyên bố đức trạch gì cũng rất khó khăn, tượng như truân kì cao (Cao nghĩa là dầu mỡ, ví vào ơn trạch của người trên; truân nghĩa là keo rít, là đức trạch chẳng tuyên bố ra được).

Thời thế tuy vẫn như thế, nhưng vì Cửu Ngũ là dương cương cư tôn, có đức, có vị, quyết chẳng chịu khoanh tay ngồi dòm, tất nhiên muốn chỉnh đốn thì cuộc, ra tay đại hữu vi, nhưng khốn nạn thay, uy quyền chẳng ở trong tay mà địa vị lại ở trên Sơ, thành ra thế cưỡi cọp, nên thánh nhân mới bày cho một phương pháp rằng: Ông nếu muốn hữu vi tất phải ủy khúc chu toàn, làm lần lần từ điếu nhỏ làm đi thời mới được an lành. Tượng là tiểu trinh thời cát, nghĩa là chỉnh đốn việc nhỏ mà thôi. Nếu chẳng hàm nhẫn được như thế mà muốn ra tay chỉnh đốn những việc thật lớn e đến nỗi quyền thần chẳng dung mình mà mắc lấy họa hoạn, Tượng là đại trinh thời hung.

 Tượng viết: Truân kì cao, thí vị quang dã. 象曰: 貞其膏, 施未光也.

 Hào từ sở dĩ nói rằng: truân kì cao là vì thời thế bắt buộc nên tuy có đức như Cửu Ngũ mà ân trạch mình chưa rõ rệt vậy.

 PHỤ CHÚ: Chúng ta đọc Hào từ này càng tin lời thầy Mạnh nói: Tuy hữu trí tuệ, bất như thừa thế; tuy hữu tư cơ, bất như đãi thì 雖有智慧, 不如乘勢; 雖有鎡基, 不如待時nghĩa là tuy sẵn có trí tuệ, nhưng cũng phải cậy vào thế mạnh; tuy sẵn có tư cơ nhưng cũng phải chờ có thì đến. Việc thiên hạ nếu chỉ trí tuệ, tư cơ mà làm xong thời Cửu Ngũ quẻ Truân làm gì đến nỗi truân kì cao mà thánh nhân phải bảo đại trinh hung?

Ngũ là dương cương, trung chính, há không trí tuệ rư? Ngũ là tôn vị, há không tư cơ rư? Nhưng vì ở đời Truân nạn là thì đã khó khăn, tại hạ có quyền thần lăng bức mà bản thân lại sụp vào giữa nguy hiểm (Ngũ ở ngoại Khảm là hãm ở hiểm trung), là thế cùng chật hẹp éo le. Thời thế đã chẳng thuận tiện, thời tuy trí tuệ, tư cơ như Cửu Ngũ cũng chỉ là tiểu trinh được, mà đại trinh thời chẳng xong.

Xem sử nước ta như đời hậu Lê, vua Lê bị áp bức với chúa Trịnh. Vua Cảnh Hưng vẫn là một ông vua hiền mà phải ngồi lặng bốn mươi năm. Đến đời vua Chiêu Thống muốn ức Trịnh phục Lê thời đến nỗi quốc vong gia táng, đó là đại trinh hung.

Thượng Lục: Thừa mã ban như, khấp huyết liên như. 上六: 乘馬班如, 泣血漣如.

 Hào Thượng là vạch trên hết quẻ Truân, tượng là đời Truân nạn đã đến lúc cực điểm. Ở vào thời đại ấy, nếu có đại tài đại trí là rất hay. Là vì truân cực, tất thông đó vậy. Nếu bất tài bất trí, thời thường bị chết oan, là vì tài hèn thời chẳng đỡ nổi gánh nặng, gánh đổ thời thân cũng nguy. Thượng Lục âm ám nhu nhược mà lại ở trên hết quẻ Truân, tượng là một người bất tài, bất trí mà xử vào địa vị khốn cực, tượng như cưỡi ngựa đứng sần, quẹt đôi hàng giọt lệ mà thôi. Khấp huyết nghĩa là khóc chảy nước mắt máu. Liên như nghĩa là nước mắt chảy đầm địa.

 Tượng viết: Khấp huyết liên như, hà khả trường dã. 象曰: 泣血漣如, 何可長也.

 Nghĩa là: Một hạng người như Thượng Lục quẻ Truân chính là tài hèn, vận ách, đứng vào thiên diên đào thải, không thể sinh tồn được nữa, còn mong gì lâu dài nữa đâu.

 PHỤ CHÚ: Đọc hết lời sáu hào quẻ Truân, phát minh được một đạo lí rất rõ rệt. Việc thiên hạ nhất thiết phải có thì, làm việc thiên hạ nhất thiết phải có người. Có người mà không thì thời việc chẳng làm nên, có thì mà không người thời việc chẳng ai làm, té ra không việc. Đạo lí trong Kinh Dịch, mỗi một quẻ, một tượng là một đám công việc. Tỉ như một quốc gia, một xã hội cũng tóm vào trong một quẻ, mỗi một hào là một thì gian trong việc ấy. Quẻ có tốt xấu ở từng quẻ, là việc ấy chung, thời tốt xấu cũng chung; hào có tốt xấu riêng từng hào là thì của mỗi hào riêng nên tốt xấu cũng riêng.

Việc, tỉ như không gian; thì, tỉ như thì gian. Tỉ như chung một quả địa cầu, mà buổi đêm ở Mỹ Châu trái lại là buổi ngày ở Á Châu. Buổi nóng ở Phi Châu trái lại là buổi rét ở Á Châu. Việc in nhau mà thì vẫn khác nhau cũng như thế. Vậy nên, làm việc phải lựa thì. Thì đúng thời việc mới xong.

Xem như quẻ Truân, Sơ Cửu tuy dương cương vẫn là người có tài, nhưng ở vào vị Truân; Sơ là lúc bắt đầu vào thì Truân nạn, còn có thể để chuyển toàn nên Hào từ Sơ Cửu có chữ lị. Thượng Lục âm nhu, vẫn là người vô tài, lại xử vào thì Truân cực, chính là thì khốn nạn cực điểm nên Hào từ có chữ khấp huyết. Thế mới biết thì có sự quan hệ rất lớn, nhưng thì lại tất cần có nhiều người mới xong.

Sơ có Tứ làm hôn cấu. Nhị có Ngũ làm hôn cấu, vì gặp bạn tế truân nên Tứ Ngũ được chữ cát. Tam vì không thấy bạn nên mắc chữ lẫn. Thượng cũng vì không thầy bạn nên mắc chữ khấp huyết. Tam, Thượng tuy ứng với nhau, như vì hai hào thảy âm nhu cả, không ứng viện cho nhau được; ở đời Truân nạn mà không thấy bạn nên hai hào thảy chẳng xong rồi.

Đó lại là một nghĩa nên biết lắm.

(Theo Quốc Văn Chu Dịch Diễn Giải-Phan Bội Châu)

 

 


Tin liên quan

Chia sẻ bài viết: 



Bình luận:

Hỗ trợ trực tuyến

Lê Công

0369.168.366

Nhà đất bán theo tỉnh thành
Nhà đất cho thuê theo tỉnh thành
Kinh Dịch
Tử vi
Huyền không Phi Tinh
Văn Hóa_Tín Ngưỡng
Thước lỗ Ban
Xen ngày tốt
Kinh Dịch
TIN NỔI BẬT

LÊ LƯƠNG CÔNG

Trụ sở: Số 31 - Mương An Kim Hải - Kenh Dương, Le Chan, Hai Phong

Tel: 0369168366 - Hotline: 0919.168.366 - Email: nhadatcongminh@gmail.com

Copyright © 2019 https://leluongcong.com/