Đạo Học
06/07/2020 - 12:50 PMLê Gia 907 Lượt xem

ĐỆ NGŨ TIẾT KHẨU QUYẾT, KIỀN KHÔN GIAO CẤU, KHỬ KHOÁNG LƯU KIM

Nội phụ Mão Dậu chu thiên khẩu quyết

Ta trước đây, đã hệ thống hai chữ Tính Mệnh bằng chữ Nhất, để giảng luận. Đó là phương pháp Thượng Thừa.

Nay lại đem hai chữ Tính Mệnh qui căn lại, bằng chữ Trung Nhi phi Nhất 中而非一, để lập luận. Đó là phương pháp Tối Thượng Thừa.

Giảng Tính Mệnh bằng chữ Nhất, cái đạo này tịch Liêu, từ Chung Ly tới nay, ít nguời biết. Đừng nói chi là qui căn hai chữ lại mà nói. Như vậy người biết lại càng ít vậy. Cái kỳ bí của khiếu diệu này, cái vi diệu của Tính Mệnh, nếu không nói đi, nói lại, thì học giả không giác ngộ được.

Con người trước khi cha mẹ sinh ra, thì Bản Thể chính là Thái Hư; đó chẳng phải là Vô Cực sao? Con người sau khi đã được cha mẹ cấu tinh, thì là Nhất Điểm Linh Quang, đó chẳng phải là Thái Cực sao?

Một điểm Linh Quang, vốn từ Thái Hư lại, là Nguyên Thần của ta. Từ đó sinh ra Khí, rồi Khí lại thành Hình. Con người chỉ biết có Hình, Khí. Chỉ biết ăn ngon, mặc đẹp nuôi dưỡng cái thân này. Chỉ biết đem vinh hoa, phú quí tô điểm cho thân này. Cứ thế rồi sinh tử, cho thế là được vậy. Và cái điều mà Tử Tư gọi là Thiên Mệnh chi vị Tính, thì không biết hay không muốn biết. Mà kẻ đã không muốn biết thì Mạnh Tử há chẳng đã nói: Không nên vì Mình mà quên mất Bản Tâm hay sao?

Còn như nếu biết ra, thì sẽ quay về mình mà tìm kiếm, ắt sẽ hồi phục lại được, cái Nhất Khí Thái Hư lúc bản sơ, cái trạng thái cũ của Nhất Điểm Linh Quang. Những chuyện đó nếu không nhờ Kim Đan Đại Đạo thì không thể được.

Cái bí ẩn của Kim Đan Đại Đạo, là ở nơi hai chữ Tính Mệnh. Tính là Trời, thường ẩn nơi đỉnh đầu. Cho nên đỉnh đầu là Căn Nguyên của Tính.

Mệnh là Bể, thường Ẩn nơi Rốn. Cho nên Rốn là gốc gác của Mệnh. Cho nên Kinh nói: Tính tại thiên biên, Mệnh trầm hải để 性在天邊, 命沉海底 (Tính ở ven Trời, Mệnh chìm đáy Bể) chính là vì vậy.

Vả cái Khiếu Trời thì tròn và tàng Tính. Nó thông với khiếu Đất, và quán thông từ trên xuống dưới, trực tiếp dưỡng dục và không làm hại. Còn cái Khiếu Đất thì vong và tàng Mệnh. Nó thông với Khiếu Trời và quán thông từ dưới lên trên, trực tiếp dưỡng dục và không làm hại.

Khổng Tử nói: Trí giả động, Thiên viên chi tượng dã; Nhân giả tĩnh, địa phương chi tượng dã 智者動, 天圓之象也; 仁者靜, 地方之象也 (Người trí thời ưa hoạt động, đó là tròn tượng Trời. Người Nhân thời ưa an tĩnh. Đó là Vuông tượng đất).

Thế nào là Trời tròn? Tròn là tròn trĩnh. Đó là nơi tính dựa nương, đó là gốc Mệnh vậy. Thế nào là Đất vuông? Phương là Phương Thốn (Tấc vuông), là nơi Mệnh hệ thuộc, là khu nữu của Tính.

Tính Mệnh hợp nhất, thì không còn là hai. Tiềm tàng nơi Trời là Trời. Tiềm tàng dưới Đất là đất.

Ưu ưu, dương dương, không hình thể, không phương sở. Hiện nơi mắt thì thấy, hiện nơi tai thì nghe, hiện nơi mũi thì ngửi, hiện nơi lưỡi thì biết đàm luận, hiện nơi tay, thì cầm nắm, hiện nơi chân thì chạy nhảy. Người ngộ thì biết đó là Phật Tính; người mê thì cho đó là Tinh Hồn.

Mà Phật tính là Bản Tính con người. Gọi là Bản Tính, vì há chẳng phải là ta vốn có Chân Tính đó hay sao? Chân tính đó, chính là Thiên Mệnh chi vị Tính.

Vì nó không thiên lệch, nên gọi là TRUNG; vì nó là Nhất Chân vô vọng, nên gọi là THÀNH; vì nó cùng Vạn Vật đồng thể nên gọi là Nhân; vì nó Chí Tôn vô đối nên gọi là Độc. Hồn luân một khối, không thiếu, không thừa.

Khi Thái Cực đã chia, khi đã có Lưỡng Nghi, thì khinh thanh bay lên trên; trọng trọc đi xuống dưới. Vì thế mà Khảm Cung có Diên, Ly cung có Hống. Thế là trước kia chỉ có một vật, đến nay đã chia thành hai.

Cho nên Tiết Tử Hiền (Phục Mệnh Thiên) nói: Nhất vật phân vi nhị, Năng tri Nhị giả danh 一勿分為二, 能知二者名 (Một vật chia thành hai, mới biết tên Hai đó).

Tên của Hai, Đan kinh không dám nói hết, ví dụ có nhiều, vạn tự thiên danh, không sao kể xiết.

Như luận về Tính trên đầu, thì ví dụ rằng: Hống (Dương), Long, Hỏa, Căn, Nhật, Hồn, Ly, Kiền, Kỷ, Thiên, Quân, Hư, Thố, Vô, Chủ, Phù, Chu Sa, Phù Tang, Xá Nữ, Côn Lôn.

Như luận về Mệnh, nơi Rốn, thì ví dụ rằng: Diên (Âm), Hổ, Thủy, Đế, Nguyệt, Phách, Khảm, Khôn, Mậu, Địa, Thần, Thật, Ô, Hữu, Tân, Trầm, Thủy Ngân, Hoa Nhạc, Anh Nhi, Khúc giang.

Đến như trong Âm có Dương, trong Dương tàng Âm, thiên ngôn vạn luận, bất quá là nói về hai tên này mà thôi. Cho nên Nguyên Hoàng quyết có câu:

Diên, Hống đỉnh trung cư,     鉛汞鼎中居

Luyện thành vô giá châu.      煉成 無價珠

Đô lai lưỡng cá tự,                  都來兩個字

Liễu tận vạn gia thư.              了盡萬家書

Diên, Hống ở trong Đỉnh,

Luyện thành vô giá châu.

Chỉ có hai chữ đó,

Đã đủ vạn gia thư

Chung Ly Ông nói:

Trừ khước Hống Diên lưỡng vị dược,

 除卻汞鉛兩味藥,

Kỳ tha đô thị cuống ngu mê.

 其他都是誑愚迷.

Ngoại trừ Hống Diên hai vị dược,

Còn toàn bịp bợm kẻ ngu mê.

Cao Tượng Tiên viết:

Mộng yết Tây Hoa đáo cửu thiên.

 夢謁西華到九天,

Chân nhân thụ ngã «Chỉ Huyền Thiên».

 真人授我指玄篇.

Kỳ trung giản dị vô đa tự,

 其中簡易無多字,

Chỉ yếu giáo nhân luyện Hống Diên.

 只要教人煉汞鉛.

Mộng tới Tây Hoa đến cửu thiên,

Chân nhân truyền thụ Chỉ Huyền Thiên.

Sách thời giản dị không nhiều chữ,

Chỉ cốt dạy người luyện Hống Diên.

Mã Đơn Dương viết:

Diên Hống thị Thủy Hỏa,      鉛汞是水火

Thủy Hỏa thị Long Hổ.        水火是龍虎

Long Hổ thị Thần Khí,          龍 虎是神氣

Thần Khí thị Tính Mệnh.      神 氣是性命

Diên Hống là Thủy Hỏa,

Thủy Hỏa là Long Hổ,

Long Hổ là Thần Khí,

Thần Khí là Tính Mệnh.

Rút cuộc chỉ có Hai Chữ; Hai chữ chỉ có một lýù. Tu mù thì mới chia hai; Tu Chân hợp hai thành một. Người biết hợp Nhất, sẽ Luyện Khí ngưng Thần, Tận Tính Chí Mệnh; nấu Diên làm khô Hống; Thủ Khảm Điền Ly.

Vì trong quẻ Ly có Linh Vật gọi là Lưu Châu. Ngụ nơi Thần thì sinh Tư Lự; Ngự nơi Tinh cũng khó bảo toàn. Nên Cát Tiên Ông (Lưu Châu Ca) nói: Thán kỳ nan ngự nhi dị thất 嘆其難馭而易失也(Tiếc rằng nókhógiữvàdễmất).

Ngụy Bá Dương cũng nói:

Thái Dương Lưu Châu,        太陽流珠

Thường dục khứ nhân.         常欲去人

Tốt đắc Kim Hoa,                   卒得金華

Chuyển vi tương nhân.         轉 而相因

Thái Dương Lưu Châu,

Rất là dễ mất.

Biết luyện thành Đan,

Mới mong giữ được.

Lại nói:

Hà thượng Xá Nữ,              河上奼女

Linh nhi tối Thần.                靈而最神

Tương dục chế chi,            將欲制之

Hoàng Nha vi căn.             黃芽為根

Xá Nữ trên sông,

Rất Linh, rất Thần.

Muốn giữ được nó,

Phải luyện thành Đan.

Nói Kim Hoa, nói Hoàng Nha là nói Chân Diên. Chân Diên là Thái Âm chi tinh. Nói Lưu Châu, nói Xá Nữ là nói Linh Hống. Linh Hống là Thái Dương chi khí.

Nhưng Linh Hống, Tính vốn mãnh Liệt, gặp Lửa sẽ bay mất tích, phải gặp Chân Diên, mới bị chế phục. Cho nên Tử Dương nói: Yêu tu chế phục mịch Kim Công 要須制伏覓金公(Muốn chếphục Hống, phải tìm Diên).

Kim Công là tên tự của Diên. Diên từ Khúc Giang (Ruột non) tới. Xuyên qua Giáp Tích, tới Ngọc Kinh, oát toàn nghịch lưu, vào thẳng Nê Hoàn.

Tuy gọi là Sưu Diên, Thiêm Hống nhưng thực ra là HOÀN TINH, BỔ NÃO. Kim Đan viết: Cố dục bất lão, hoàn tinh bổ não 故欲不老, 還精補腦(Nếu không muốn già, phải hoàn tinh bổnão).

Thúy Hư Thiên viết:

Thiên hữu thất Tinh, địa thất Bảo,

 天有七星地七寶,

Nhân hữu thất Khiếu, quyền quy Não.

 人有七竅權歸腦.

Trời có thất Tinh, đất Thất Bảo,

Người có Thất Khiếu, cực là Não.

Thái Cổ tập viết:

Kim Đan vận đáo Nê Hoàn Huyệt,

 金丹運到泥丸穴,

Danh Tính tiên tương ký Ngọc Đô.

 名性先將記玉都.

Kim Đơn vận đến Nê Hoàn Huyệt,

Danh tính đà ghi tại sổ trời.

Pháp Bảo Di Châu viết:

Nhận đắc Bản Lai Chân Diện mục,

 認得本來真面目.

Thủy tri sinh tử tại Nê Hoàn.

 始知生死在泥丸.

Biết được Bản Lai Chân Diện Mục,

Mới hay sinh tử tại Nê Hoàn.

Huỳnh Đình Kinh viết: Nê Hoàn bách tiết giai hữu Thần[1] 泥丸百節皆有神 (Nê Hoàn bách tiết đều có Thần).  Lại nói: Não trung tinh căn tự Nê Hoàn[2] 腦中精根自泥丸(Não Thần tinh căn tựNêHoàn).

Lại nói:

Nhất diện chi thần thông Nê Hoàn,

 一面之神通泥丸,

Nê Hoàn cửu Chân giai hữu phòng.

 泥丸九真皆有房.

Phương viên nhất thốn xứ thử trung,

 方圓一寸處此中,

Đãn tư nhất bộ thọ vô cùng.[3]

 但思一部壽無窮.

Chư Thần nơi mặt thuộc Nê Hoàn,

Nê Hoàn Cửu Chân đều có phòng.

Vuông tròn một tấc tại não trung,

Tồn tư Cửu Chân thọ vô cương.

Phương Viên Nhất Thốn là nơi đức Thích Ca xoa đầu để thụ ký. Đó là Huyền Trung chi huyền, là Thiên Trung chi Thiên, là Uất La Tú Đài, Ngọc Sơn, Thổ Kinh, Não huyết chi Quỳnh Phòng, Hồn Tinh chi Ngọc Thất, Bách Linh chi Mệnh Xá, Tân Dịch chi Sơn Nguyên, đó là huyệt giao thông ở giữa hai tai, trước là Minh Đường, sau là Ngọc Chẩm, trên là Hoa Cái, dưới là Giáng Cung, ở giữa Thái Uyên Bắc Cực, là chỗ Nguyên Thần sở cư.

Xưa vua Hoàng Đế lên núi Nga Mi, yết kiến Thiên Chân Hoàng Nhân, để hỏi về đạo Chân Nhất.

Hoàng Nhân nói: Đó là điều quí trọng của Đạo gia. Kinh này Thượng Đế dấu trong năm thành của núi Côn Lôn, để trong hòm ngọc, chữ khắc vào thẻ Kim Trát, bôi bằng bùn tía, đóng ấn Trung Chương.[4]

Ta nghe Kinh sách nói: Chân Nhất ở tại Bắc Cực Thái Uyên, trước có Minh Đường, sau có Ngọc Trẩm, trên có Hoa Cái, dưới có Giáng Cung. Nguy nga Hoa Cái, lầu vàng, mái cong (chỉ Não môn).

Tả Cang, hữu Khôi (chỉ 2 mắt), Sóng vỗ ngang trời (Sóng mắt); cỏ tử chi mọc quanh bồ, cỏ chu thảo mung lung(chỉ lông mi); ngọc trắng tha nga (chỉ lòng trắng mắt), nhật nguyệt rãi sáng (chỉ 2 mắt), băng qua Hoả Thủy (Khảm Ly), thấu suốt Huyền Hoàng (Trời Đất, Âm Dương). Thành quyết tương giao, màn che, trướng rủ, châu cài, ngọc dắt, Long Hổ bảo vệ, thần nhân đứng bên, không cho không lấy, ở yên tại chỗ. Không chậm, không nhanh, ở yên trong buồng. Được rảnh, được vui, NHẤT ở không đi; THỦ NHẤT TỒN CHÂN, Nhất sẽ thông Thần. Bớt muốn, bớt ăn, Nhất sẽ Lưu Tức. Khi dao kề cổ, nghĩ đến Nhất sẽ được sống. Biết Nhất không khó, khó là lúc chung cuộc. Giữ Nhất không rời, sẽ được vô cùng. Đó là đại lược về bí quyết Chân Nhất.

Cho nên Đạo Đức Kinh viết:

Thiên đắc Nhất dĩ thanh,

 天得一以清,

Địa đắc Nhất dĩ ninh.

 地得一以寧.

Thần đắc Nhất dĩ Linh.

 神得一以靈.

Cốc đắc Nhất dĩ doanh,

 谷得一以盈,

Vạn vật đắc Nhất dĩ sinh,

 萬物得一以生,

Vương hầu đắc Nhất dĩ vi thiên hạ trinh.[5]

 王侯得一以為天下貞.

Trời có Ngài nên hóa trong xanh,

Nhờ Ngài nên đất an ninh,

Chư Thần nhờ thế uy linh, nhiệm mầu,

Có Hóa Công hang sâu hóa đặc,

Nhờ có Ngài muôn vật tốt tươi,

Vương hầu cũng dựa đức Người,

Trị vì thiên hạ thảnh thơi an bình.

Còn nói rằng: Thần dĩ tri lai, Tri dĩ tàng vãng.[6] (Dùng Thần trông tỏ tương lai, tiềm tàng trong trí muôn đời xa xưa).

Còn nói rằng: Lớn mà cảm hoá thì gọi là Thánh. Thánh mà không hiểu nổi thì là Thần. Chia ra làm Hai thì gọi là Âm Dương. Chia ra làm năm thì là Ngũ Hành. Lại chia làm tám. Tám tám sáu mươi tư là số của Hà Đồ. Lại chia làm chín. Chín Chín tám mươi mốt, là số của Lạc Thư. Rồi chia thành Vạn vật. Sinh Sinh Hóa Hoá là Cương duy của Vạn Vật.

Phục Hi Văn Vương được chữ Nhất mà Chu Dịch hưng khởi. Đại Võ, Cơ Tử được chữ Nhất, mà Hồng Phạm Cửu Trù sinh; Chu Mậu Thúc (Chu Liêm Khê) được chữ Nhất mà có Thái Cực Đồ; Thiệu Nghiêu Phu (Thiệu Khang Tiết) đắc Nhất mà viết Hoàng Cực Kinh Thế; Lão Tử được chữ Nhất, mà vạn sự tất; Thích Ca được chữ Nhất mà Vạn Pháp qui. Qui Căn là Qui Nhất, Phục Mệnh là Phục Nhất vậy.

Tây Thăng Kinh viết:

Nhân năng thủ Nhất,                    人能守一

Nhất diệc thủ Nhân.                      一亦守人

Tư Nhất chí cơ,                              思一至飢

Nhất dữ chi lương,                         一與之糧

Tư Nhất chí khát.                           思一至渴

Nhất dữ chi tương.                        一與之漿

Người giữ được Nhất,

Nhất sẽ giữ người.

Nghĩ Nhất mà đói,

Nhất sẽ cho ăn,

Nghĩ Nhất mà khát,

Nhất sẽ cho uống.

Linh Khu Kinh viết: Thiên Cốc, Nguyên Thần, Thủ chi tự chân 天谷, 元神守之自真 (Giữ được Nguyên Thần trong Thiên Cốc, Sẽ đạt cảnh giới Thiên Chân).

Lại viết: Tử dục trường sinh, Bão Nhất đương minh 子欲長生抱 當明 (Người muốn trường sinh, Ôm Nhất sẽ rõ).

Lại viết: Bão Nhất thủ Chân, Thần tự thông Linh 抱一守真, 神自通靈 (Ôm Nhất thủ Chân, Thần sẽ thông Linh).

Nếu con người Ác thần[7] thủ Nhất 握神守一 được ở nơi Bản Cung (Nê Hoàn Cung), thì Chân Khí tự nhiên sẽ bay lên, Chân tức sẽ tự định, Chân Tinh sẽ tự triều; Linh Miêu sẽ lớn; Thiên Môn sẽ mở; Nguyên Thần sẽ tự hiện; Khiếu trên đỉnh đầu sẽ mở và các khiếu khác cũng sẽ mở. Nguyên Thần cư tại vị, và các Thần khác đều nghe lệnh. Thần đã ở trong Khiếu và đã không phát tán; thì con người làm sao chết được? Cho nên Huỳnh Đình Kinh nói: Tử dục bất tử, tu Côn Lôn[8] (Bạn muốn trường sinh tu Côn Lôn. (Côn lôn là đầu con người), chính là vậy.

Cho nên Khâu Xử Cơ nói:

Cửu thị Côn Lôn thủ Chân Nhất,

 久視崑崙守真一,

Thủ đắc Ma Ni viên hựu xích.

 守得摩尼圓又赤.

Thanh Hư hạo khoáng Đà La Môn,

 清虛浩曠陀羅門,

Vạn Phật thiên Tiên tòng thử xuất.

 萬佛千秈從此出.

Nhìn lâu Đan điền, giữ Chân Nhất,

Được Ngọc Ma Ni, tròn lại đỏ,

Đà La Môn (Nê Hoàn Cung) ấy thực thanh hư,

Vạn Phật, Thiên Tiên do đó xuất.

Hoàn Nguyên Thiên viết:

Ngộ Đạo hiển nhiên minh lang lạc,

 悟道顯然明廊落,

Nhàn nhàn đoan tọa vận Thiên Quan.

 閑閑端坐運天關.

Biết Đạo âu rành Thanh Tĩnh Lý,

Ngồi thẳng yên người giữ Nê Hoàn.

Đó là căn bản công phu, đó là học vấn đầu não, đó là thủ đoạn mở cửa Trời, đó là Linh Chương để thoát Tử Tịch, Đạo Lý này là bí mật của thượng Thiên, xưa nay Tiên Phật không dám nói rõ. Cho nên trong ngàn vạn người may mới được một hai người biết. Thât là huyền diệu. Lại có những khẩu quyết nói không hết lời.

Người xưa đinh ninh dặn dò rằng: Khi Chân Diên nhập đỉnh, phải khu trừ tạp niệm, đem hết Tinh Thần, Mắt hướng đỉnh đầu, dụng hết tâm chí, trong chớp nhoáng đó, Nguyên Thần, Nguyên Khí sẽ giao hợp, tạo hóa sẽ vận chuyển, sấm vang, điện giật, cảm động Kiền Khôn, bách mạch khai thông, cửu cung thấu triệt, kim tinh quán đỉnh, chân khí bốc lên trời.

Tử Dương gọi thế là: Dĩ Hắc nhi biến hồng, Nhất đỉnh vân khí nùng 以黑而變紅, 一鼎氣雲濃 (Lấy đen biến thành Hồng, Chính khí sẽ đầy Nê Hoàn).

Trong khoảnh khắc, nhiệt độ nơi Thượng Hạ Đan Điền sẽ giảm, đó là triệu chứng Đan thành. Hoàng Nha, Bạch Tuyết sẽ xuất hiện. Nguyên Thần, Nguyên Khí, Âm Dương, Hồn Phách, như đôi vợ chồng hòa hợp với nhau, phát ra tiếng Long Ngâm, Cọp Hú. Dương Tinh Hống Tủy ngưng kết như châu. Bạch Ngọc Thiềm viết: Phu phụ lão tương phùng, Ân tình tự lưu luyến 夫婦老 相逢, 恩情自留戀 (Vợ chồng già gặp nhau, ân tình tự lưu luyến). Lúc đó, Huyền Châu thành tượng, quặng mất, vàng còn, và một điểm Kim Dịch sẽ rơi xuống chốn cũ Huỳnh Đình vậy.

Lúc đó, mây núi an nhiên bay lên Thái Hư, mưa xuân lã tã rơi xuống thấm nhuần đất đai, tràn ngập giang trạch, băng hà bắt đầu tan chảy, bách mạch không hư, hoà hoạt, làm tứ chi thư sướng, như mùa Xuân đến muôn nơi.

Thấy hiệu nghiệm đó, lập tức hành Mão Dậu chu thiên (vận nội khí chu lưu khắp người) tòng tả thượng, tòng hữu hạ là Tiến Dương Hỏa, tòng hữu thượng, tòng tả hạ, là Thoái Âm Phù; khiến cho nội khí thượng hạ, tả hữu toàn thân được hội hợp hỗn dung, cho ngũ hành hợp nhất trong một Đỉnh, dung hợp Ngũ Linh nơi Thiên Cốc, Lý Ngũ Khí về Nê Hoàn vậy.

Cao Tượng Tiên nói:

Huyền Châu phi đáo Côn Lôn thượng,

 玄珠飛到崑崙上,

Tử nhược cầu chi bằng Võng Tượng.

 子若求之憑罔象.

Huyền Châu bay tới đỉnh Côn Lôn,

Muốn được Huyền Châu phải Võng Tượng.

Hà Xa Ca viết:

Lưỡng vật cầm lai cộng nhất lô,

 兩物擒來共一爐,

Nhất hoằng Thần Thủy kết Chân Tô.

 一泓神水結真酥.

Nguyên Thần Nguyên Khí bỏ một lò,

Thần Thủy đem về kết Chân Tô,

Chỉ Huyền Thiên viết:

Tất tri hội hợp Đông Tây lộ,

 必知會合東西路,

Thiết tại xung hoà thượng Đan Điền.

 切在沖和上下田.

Đông Tây, Tả Hữu đôi đường cách,

Phải biết đem về Thượng Đan Điền.

Trần Nê Hoàn nói:

Bạch Hổ tự tư tương kiến hậu,

 白虎自玆相見後,

Lưu Châu na khẳng bất tương tòng?

 流珠那肯不相從.

Bạch hổ (Nguyên Khí) từ khi mà gặp được.

Nguyên Thần hồ dễ chẳng nghe theo?

Doãn Chân Nhân nói:

Tứ Tượng, Ngũ Hành toàn thốc xứ,

 四象五行攢簇處,

Kiền Khôn, nhất nguyệt tự nhiên qui.

 乾坤一月自然歸.

Tứ Tượng Ngũ hành mà hoà hợp,

Kiền Khôn, Nhật Nguyệt cũng về theo.

Tiệm Ngộ Tập viết:

Nhân thiêu đan dược hỏa viêm hạ,

 因燒丹藥火炎下,

Cố sử Hoàng Hà thủy nghịch lưu.

 故使黃河水逆流.

Đã biết tiến Dương Hỏa,

Phải biết thoái Âm Phù.

Thuần Túy Ngâm viết:

Tí Ngọ lô tiền phân tiến thoái,

 子午爐前分進退,

Kiền Khôn đỉnh nội liệt phù trầm.

 乾坤鼎內列浮沉.

Luyện thuốc phải rành đường Tiến Thoái,

Biết lẽ Thăng Trầm nữa mới hay.

Huyền Áo Tập viết:

Kim Tình Mộc Tính tương giao hội,

 金情木性相交會,

Hắc Diên, Hồng Hống tự cảm thông.

 黑鉛紅汞自感通.

Nguyên Thần (Mộc), Nguyên Khí (Kim) đà giao hợp,

Hắc Diên, Hồng Hống tự cảm thông.

Vân Phòng chân nhân nói:

Khu hồi đẩu bính Huyền Quan Lý,

 驅回斗柄玄關理,

Oát chuyển Thiên Quan vạn tượng thông,

 斡轉天關萬象通.

Phiến hướng Hổ Long tần đẩu bãi,

 片餉虎龍頻斗罷.

Nhị vật tương giao khoảnh khắc trung.

 二物相交頃刻中.

Nhìn chuôi Bắc Đẩu vận Huyền Quan,

Thiên Quan xoay chuyển vạn tượng thông,

Hồ Long vứa thấy so hơn kém,

Đã Thầy hòa hài, khoảnh khắc trung.

Chỉ Huyền Thiên viết:

Bôn qui Khí Hải danh Châu Ký,

 奔歸氣海名朱驥,

Phi nhập Nê Hoàn thị Bạch Nha.

 飛入泥丸是白鴉.

Tạc dạ Hổ Long tranh đấu bãi,

 昨夜虎龍爭鬥罷,

Tuyết trung vi hiện nguyệt câu tà.

 雪中微現月鉤斜.

Nguyên Thần (Châu Ký) băng Khí Hải,

Bạch Nha đà thấy nhập Nê Hoàn.

Đêm qua Long Hổ vừa tranh đấu,

Trong tuyết hiện ra mảnh trăng tà.[9]

Tỉnh Nhãn Thi rằng:

Mộc Kim gián cách các Tây Đông,

 木金間隔各西東,

Vân khởi, Long ngâm, Hổ khiếu phong.

 雲起龍吟虎嘯風.

Nhị vật liêu liêu Thiên địa hồi,

 二物寥寥天地回,

Hạnh nhân Mậu Kỷ hội thư hùng.

 幸因戊己會雌雄.

Mộc[10] Kim[11] cách trở tại Đông Tây,

Gió thổi, mây tuôn, Rồng Cọp hú,

Thần khí xa nhau cả đất Trời,

May nhờ Mậu Kỷ thành Trống Mái.

Trần Nê Hoàn viết:

Tí thời khí đáo Vĩ Lư Quan,

 子時氣到尾閭關,

Giáp Tích, Hà Xa vận Tắng san.

 夾脊河車運甑山.

Nhất loã Thủy Tinh nhập lô nội,

 一顆水晶入爐內,

Xích Long hàm Hống thượng Nê Hoàn.

 赤龍含汞上泥丸.

Khí vào giờ Tí tới Vĩ Lư,

Theo đường Giáp Tích truyền lên đỉnh,

Nhất loã Kim Đan nhập Đan Điền,

Nguyên Thần Nguyên Khí thượng Nê Hoàn.

Túy Hư Thiên viết:

Túy đảo hàm miên mộng thục thời,

 醉倒酣眠夢熟時,

Mãn thuyền tải bảo quá Tào Khê.

 滿船載寶過曹溪.

Nhất tài thức phá đan cơ hậu,

 一才識破丹基後,

Phóng khứ thu lai tổng thị y.

 放去收來總是伊.

Quá chén, ngủ say, dệt mộng thời,

Một thuyền châu báu qua Đốc mạch.

Từ khi biết được phép luyện Đơn,

Phóng khứ, thu lai thật dễ dàng.

Cổ Tiên Ca vân:

Thuỷ Ngân nhất vị thị Tiên Dược,

 水銀一味是仙藥,

Tòng thượng truyền lưu phục hỏa nan.

 從上傳流伏火難.

Nhược ngộ Hà Xa thành tử phấn,

 若遇河車成紫粉,

Phấn sương nhất thổ hóa Kim Đơn.

 粉霜一吐化金華.

Nguyên Thần nhất vị là Tiên Dược,

Xưa nay kết tụ rất khó khăn.

May ra gặp đựơc Chân Nguyên Khí,

Phấn sương lan tỏa hiện Kim Đan.

Huyền Áo Tập nói:

Di tương Bắc Đẩu quá Nam Thần,

 移將北斗過南辰,

Lưỡng thủ song kình Nhật Nguyệt luân.

 兩手雙擎日月輪.

Phi sấn Côn Lôn sơn thượng xuất,

 飛趁崑崙山上出,

Tu du hoá tác nhất thiên vân.

 須臾化作一天雲.

Đem sao Bắc Đẩu (Khảm) xuống Nam Thần (Ly).

Nhật Nguyệt hai vầng nắm trong tay.

Bay tới Côn Lôn Liền xuất hiện,

Tự nhiên hoá tác đám tường vân.

Âm Trường Sinh nói:

Thâm dạ Long ngâm Hổ khiếu thì,

 深夜龍吟虎嘯時,

Cấp giá Hà Xa vô tạm hiết.

 急駕河車無暫歇.

Phi tinh vận thượng Côn Lôn đỉnh,

 飛精運上崑崙頂,

Tiến hỏa Ngọc Lô phanh tự tuyết.

 進火玉爐烹似雪.

Long ngâm, Hổ khiếu trong đêm vắng,

Hãy chuyển Hà Xa chớ có lơi.

Phi tinh hãy vận Côn Lôn đỉnh,

Đem lửa đốt lò trắng như tuyết.

Trương Nguyên Hoá viết:

Nghi lưu nhất trực thượng Bồng Lai,

 宜流一直上蓬萊,

Tán tại Cam Tuyền nhuận cửu hài.

 散在甘泵潤九骸.

Tòng thử Đan Điền triêm nhuận trạch,

 從此丹田沾潤澤,

Hoàng Nha biến địa nhất tề khai.

 黃芽變地一齊開.

Sông Nghi chảy thẳng tới Bồng Lai,

Tán thành Tân Dịch nhuận cửu hài.

Đơn Điền nhờ vậy nên nhuận trạch,

Hoàng Nha khắp đất nở tung khai.

Nguyên Đạo Ca vân:

Diệu vận Đan Điền tu thượng hạ,

 妙運丹田須上下,

Tu tri nhất thể hợp Tây Đông.

 須知一體合西東.

Kỷ hồi tiếu chỉ Côn Lôn thượng,

 幾回笑指崑崙上,

Giáp tích phân minh hữu lộ thông.

 夾脊分明有路通.

Phải vận khí qua Thượng Hạ Đan Điền,

Biết phải trái Tây Đông trong người.

Mới hay từ Giáp Tích lên Côn Lôn,

Phân minh vốn đã có đường lối.

Áo Bí Tập viết:

Độc bộ Côn Lôn vọng yểu minh,

 獨步崑崙望窈冥,

Long ngâm hổ khiếu thậm phân minh.

 龍吟虎嘯甚分明.

Ngọc trì thường trích Âm Dương tủy,

 玉池常滴陰陽髓,

Kim đỉnh thời phanh nhật nguyệt tinh.

 金頂時烹日月精.

Bước tới Côn Lôn học huyền vi,

Long ngâm Hổ khiếu rõ ràng nghe.

Trong miệng Cam Lồ thường nhỏ xuống,

Đơn Điền thường luyện Nhật Nguyệt tinh.

Quần Tiên Châu Ngọc viết:

Nhất điểm Đan Dương sự quýnh biệt,

 一點丹陽事迥別,

Tu hướng Khảm trung cầu xích huyết.

 須向坎中求赤血.

Tróc lai Ly vị chế Âm Tinh,

 捉來離位制陰精,

Phối hợp điều hòa hữu thời tiết.

 配合調和有時節.

Muốn luyên Nội Đơn phải hiểu rành.

Phải từ quẻ Khảm lấy Dương Tinh,

Thay thế quẻ Ly hào chính giữa,

Phối hợp, điều hòa có thời tiết.

Kim Đan Tâp viết:

Hà xa ban vận thượng Côn sơn,

 河車搬運上崑山,

Bất động khiên hào đáo Ngọc Quan.

 不動縴毫到玉關.

Diệu tại nhập môn lao bế tỏa,[12]

 妙在入門牢閉鎖,

AÂm Dương nhất khí tư ïtuần hoàn.

 陰陽一氣自循環.

Hà xa vận chuyển tới Côn Lôn,

Không cần vất vả thấu Ngọc Quan.[13]

Hay là biết giữ đầu óc sáng

Âm Dương nhất khí tự tuần hoàn.

Nguyên Nhất Ca viết:

Đáo thử đắc Nhất phục vong Nhất,

 到此得一復忘一,

Khả dữ Nguyên Hóa đồng xuất một.

 可與元化同出沒.

Thiết nhược chấp nhất bất năng vong,

 設若執一不能忘,

Đại tự si miêu thủ không quật.

 大似痴貓守空窟.

Đạt được Nhất rồi lại quên Nhất,[14]

Sẽ cùng Tạo Hóa đồng xuất một.

Nếu như chấp nhất không quên được,

Sẽ giống mèo ngu, giữ hang không.

Bạch Ngọc Thiềm viết:

Hống Tâm luyện Thần Xích Long Tính,

 汞心煉神赤龍性,

Diên thân ngưng Khí Bạch Hổ Mệnh.

 鉛身凝氣白虎命.

Nội ngoại hỗn vô nhất điểm âm,

 內外混無一點陰,

Vạn tượng quang trung ngọc kính thanh.

 萬象光中玉鏡清.

Trong Hống luyện phanh Xích Long, Tính,

Diên thời ngưng khí Bạch Hổ, Mệnh.

Thần Khí trong ngoài sạch hết Âm,

Đại đan trong sáng ắt mau thành.

Thuần Dương Tập viết:

Đạo đắc Kiền Khôn tổ,        盜得乾坤祖

Âm Dương thị bản tông.      陰陽 是本宗

Thiên Hồn sinh Bạch Hổ,    天魂生白虎

Địa phách sản thanh long.  地魄產 青龍

Vận bửu Nê Hoàn trụ,         運寶泥丸住

Ban Tinh nhập Thổ cung.   搬精 入土宮

Hữu nhân minh thử pháp,   有人 明此法

Vạn tải mạo như đồng.        萬 載貌如童

Trộm được Kiền Khôn tổ,

Thấy căn bản Âm Dương.

Thiên Hồn sinh Nguyên Khí,

Địa Phách hóa Nguyên Thần.

Nê Hoàn đem báu lại,

Tinh Hoa tới Thổ Cung.

Ai mà biết phép đó.

Muôn năm trẻ như đồng.

Bão Nhất Tử (Hiển Đạo đồ) viết:

Tạo đạo nguyên lai bổn bất nan,

 造道原來本不難,           

Công phu chỉ tại định trung gian,

 工夫只在定中間.

AÂm Dương thượng hạ thường thăng giáng,

 陰陽上下常升降,

Kim Thủy chu lưu tự phản hoàn.

 金水周流自返還.

Tử phủ, Thanh Long giao Bạch Hổ,

 紫府青龍交白虎,

Huyền cung địa trục hợp Thiên Quan,

 玄宮地軸合天關.

Vân thu vũ tán Thần thai tựu,

 雲收雨散神胎就,

Nam tử sinh nhi bất đẳng nhàn.

 男子生兒不等閑.

Nguồn đạo tìm ra chẳng khó khăn,

Công phu chỉ tại Định trung gian.

Âm Dương thượng hạ thường thăng giáng,

Nguyên Khí trong ta mặc phản hoàn,

Tử phủ, Thanh Long giao Bạch Hổ,

Huyền cung Địa Trục hợp Thiên Quan.

Kim Đan ngưng kết Thánh Thai hiện,

Nam tử sinh con chuyện phi thướng.

Huyền Áo Tập vân:

Yếu thức Huyền Quan đoan đích xứ,

 要識玄關端的處,

Nhi nữ tiếu chỉ Tối Cao Phong.

 兒女笑指最高峰.

Thượng tối Cao Phong tú thả kỳ,

 上最高峰秀且奇,

Bỉ ngạn mông mông sinh tử chi.

 彼岸蒙蒙生紫芝.

Chỉ thử tiện thị Trường Sinh dược,

 只此便是長生藥,

Vô hạn tu hành nhân bất tri.

 無限修行人不知.

 

còn tiếp >>>>>


Tin liên quan

Chia sẻ bài viết: 



Bình luận:

Hỗ trợ trực tuyến

Lê Công

0369.168.366

Nhà đất bán theo tỉnh thành
Nhà đất cho thuê theo tỉnh thành
Kinh Dịch
Tử vi
Huyền không Phi Tinh
Văn Hóa_Tín Ngưỡng
Thước lỗ Ban
Xen ngày tốt
Đạo Học
TIN NỔI BẬT

LÊ LƯƠNG CÔNG

Trụ sở: Số 31 - Mương An Kim Hải - Kenh Dương, Le Chan, Hai Phong

Tel: 0369168366 - Hotline: 0919.168.366 - Email: nhadatcongminh@gmail.com

Copyright © 2019 https://leluongcong.com/