Kinh Dịch
23/10/2023 - 4:32 PMLê Công 918 Lượt xem

 

Ý nghĩa thứ tự 64 quẻ trong Kinh Dịch (phần 2)

Ý nghĩa thứ tự 64 quẻ trong Kinh Dịch (phần 2)

33. Quẻ Thiên Sơn Độn

Quẻ này Càn là quái thượng, cũng là ngoại quái, Cấn là quái hạ, cũng là nội quái, Càn tượng Thiên, là trời, Cấn tượng Sơn, là núi, nên gọi là Thiên Sơn Độn. Sau quẻ Hằng, đến quẻ Độn. Hằng nghĩa là lâu dài, mà không vật gì ở lâu được một chốn, ở đến lúc nào đó phải tháo lui. Độn nghĩa là tháo lui.
Hằng là cửu, Độn là lui, đã cửu thời phải lui, đêm tới thì mặt trời phải lui, xuân tới thì đông phải lui, người già phải lui hưu, để lớp trẻ lên. Độn là nghĩa vậy.
34. Quẻ Lôi Thiên Đại Tráng
Quẻ này Chấn là quái thượng, cũng là ngoại quái, Thiên là quái hạ, cũng là nội quái, Chấn tượng Lôi, là sấm, Càn tượng Thiên, là trời, nên gọi là Thiên Sơn Độn. Sau quẻ Độn, đến quẻ Đại Tráng. Độn nghĩa là tháo lui, lui rồi thì phải lên, lên tất lớn mạnh, nên gọi là Đại Tráng.
Thông lệ trong dịch, đại là dương, tiểu là âm, ở đây dương đã lên mạnh, đến 4 nét, âm tiêu chỉ còn 2 nét. Đại Tráng là vậy.
35. Quẻ Hoả Địa Tấn
Quẻ này Ly là quái thượng, cũng là ngoại quái, Khôn là quái hạ, cũng là nội quái, Ly tượng Hoả, là lửa, Khôn tượng Địa, là đất, nên gọi là Hoả Địa Tấn. Sau quẻ Đại Tráng, đến quẻ Tấn. Tấn là tiến lên, đã lớn mạnh như Đại Tráng tất phải tiến lên.
Theo về tượng quẻ, Ly ở trên Khôn, tượng mặt trời đã lên khỏi đất, càng lên cao càng thêm sáng, thế là tấn mạnh lắm, nên tên quẻ là Tấn.
36. Quẻ Địa Hoả Minh Di
Quẻ này Khôn là quái thượng, cũng là ngoại quái, Ly là quái hạ, cũng là nội quái, Khôn tượng Địa, là đất, Ly tượng Hoả, là lửa, nên gọi là Địa Hoả Minh Di. Sau quẻ Tấn, đến quẻ Minh Di. Tấn là tiến lên, hễ Tấn mãi tất bị thương mà đau, Di nghĩa là đau.
Theo về thể quẻ, quẻ Tấn đảo ngược thành quẻ Minh Di, mặt trời mọc trên đất là Tấn, bay giờ Khôn trên Ly, mặt trời đã lặn vào đất. Nguyên trước vẫn minh, mà bây giờ Minh đã bị thương nên gọi là Minh Di.
37. Quẻ Phong Hoả Gia Nhân
Quẻ này Tốn là quái thượng, cũng là ngoại quái, Ly là quái hạ, cũng là nội quái, Tốn tượng Phong, là gió, Ly tượng Hoả, là lửa, nên gọi là Phong Hoả Gia Nhân. Sau quẻ Minh Di, đến quẻ Gia Nhân.
Minh Di, nghĩa là bị thương, tất nhiên phải quay trở lại nhà. Gia Nhân, là người trong một nhà. Đạo trong nhà tất có tinh thần thuộc về cha con, nghĩa chính thuộc về vợ chồng, thứ tự thuộc về tôn ty trưởng ấu, chính được luận lý trọn vẹn, được ân với nghĩa đó là đại gia nhân. Muốn xử cho đúng đạo ấy, tất phải có đức sáng ở bên trong, mà hoà thuận ở bên ngoài. Chính tượng quẻ đã nói lên điều đó. Nội quái là Ly, tượng Minh sáng, ngoại quái tốn, tượng Thuận.
38. Quẻ Hoả Trạch Khuê
Quẻ này Ly là quái thượng, cũng là ngoại quái, Đoài là quái hạ, cũng là nội quái, Ly tượng Hoả, là lửa, Đoài tượng Trạch, là đầm, nên gọi là Hoả Trạch Khuê. Sau quẻ Gia Nhân, đến quẻ Khuê. Gia đạo đến cùng lại sinh chống nhau. Khuê, nghĩa là trái chống nhau.
39. Quẻ Thuỷ Sơn Kiển
Quẻ này Khảm là quái thượng, cũng là ngoại quái, Cấn là quái hạ, cũng là nội quái, Khảm tượng Thuỷ, là nước, Cấn tượng Sơn, là núi, nên gọi là Thuỷ Sơn Kiển. Sau quẻ Khuê, đến quẻ Kiển. Hễ đương lúc Khuê quai, tất có Kiển nạn, Kiển, nghĩa là gay go, hiểm trở.
Theo như thể quẻ, Khảm ở trên, Cấn ở dưới, trên hiểm mà dưới phải chỉ.
Trước mặt bị sông đón, sau lưng bị núi ngăn, đi đứng thật là khốn nạn, nên đặt tên là Kiển.
40. Quẻ Lôi Thuỷ Giải
Quẻ này Chấn là quái thượng, cũng là ngoại quái, Khảm là quái hạ, cũng là nội quái, Chấn tượng Lôi, là sấm, Khảm tượng Thuỷ, là nước, nên gọi là Lôi Thuỷ Giải. Sau quẻ Kiển, đến quẻ Giải. Kiển là nạn, Giải là tan. Vật không lẽ cứ nạn mãi, nạn cực rồi phải đến lúc tan. Bao nhiêu việc khốn nạn đến bây giờ giải tán cả. Tựa như tượng quẻ, Chấn là Lôi, Khảm là Vũ, âm dương giao cảm hoà xướng mà đồng thì mưa sấm lung tung, bao nhiêu khí u uất bây giờ giải tán hết cả, ấy là Giải.

Ý nghĩa thứ tự 64 quẻ trong Kinh Dịch (phần 2)

41. Quẻ Sơn Trạch Tổn
Quẻ này Cấn là quái thượng, cũng là ngoại quái, Trạch là quái hạ, cũng là nội quái, Cấn tượng Sơn, là núi, Đoài tượng Trạch, là đầm, nên gọi là Sơn Trạch Tổn. Sau quẻ Giải, đến quẻ Tổn. Hễ đương lúc giải, nghĩa là có khoan nới, mà khoan nới thì thường quên lo, quên lo gây thiệt hại, đấy chính là nghĩa của Tổn. Tổn có nghĩa là thiệt hại, giảm bớt, hao tổn.
42. Quẻ Phong Lôi Ích
Quẻ này Tốn là quái thượng, cũng là ngoại quái, Chấn là quái hạ, cũng là nội quái, Tốn tượng Phong, là gió, Chấn tượng Lôi, là sấm, nên gọi là Phong Lôi Ích. Sau quẻ Tổn, đến quẻ Ích. Ích, là có ích, tổn, ích thịnh suy như là vòng tròn quy luật muôn đời.
Về tượng quẻ, Phong là gió, Lôi là sấm, gió mạnh sấm càng hung, sấm choảng thì gió càng dữ, gió sấm phụ ích cho nhau, nên gọi bằng quẻ Ích.
43. Quẻ Trạch Thiên Quải
Quẻ này Đoài là quái thượng, cũng là ngoại quái, Càn là quái hạ, cũng là nội quái, Đoài tượng Trạch, là đầm, Càn tượng Thiên, là trời, nên gọi là Trạch Thiên Quải. Sau quẻ Ích, đến quẻ Quải. Ích, đến lúc cực, tất nhiên tràn đầy, đầy tất nứt vựa ra. Quải có hai nghĩa, một là quyết liệt, cũng có ý là rách vựa, Quải cũng là hội quyết, theo nghĩa là nẻ troạng.
Về tượng quẻ, Càn là trời, Đoài là đầm, là nước chằm, nước chằm lên cao tột trời, nên nứt vỡ lung tung.
Lại theo về thể quẻ, năm dương ở dưới, một âm ở trên, năm duwong hùa nhau, dùng thủ đoạn cương quyết mà quậy phá một âm, tượng là một bầy quân tử, quyết khử một đứa tiểu nhân, hàm nghĩa đó, đặt tên quẻ Quải.
44. Quẻ Thiên Phong Cấu
Quẻ này Càn là quái thượng, cũng là ngoại quái, Tốn là quái hạ, cũng là nội quái, Càn tượng Thiên, là trời, Tốn tượng Phong, là gió, nên gọi là Thiên Phong Cấu. Sau quẻ Quải, đến quẻ Cấu. Quải qua, có nghĩa là phán quyết xong, lúc ấy phải gặp gỡ và dung nạp, Cấu nghĩa là dung nạp.
Theo về tượng quẻ, Càn trên, Tốn dưới, trời trên gió dưới, dưới trời tất thảy là vạn vật. Gió đi tới đâu, thảy đều đụng chạm đấy, đó là tượng tạo thành Cấu.
45. Quẻ Trạch Địa Tuỵ
Quẻ này Đoài là quái thượng, cũng là ngoại quái, Khôn là quái hạ, cũng là nội quái, Đoài tượng Trạch, là đầm, Khôn tượng Địa, là đất, nên gọi là Trạch Địa Tuỵ. Sau quẻ Cấu, đến quẻ Tuỵ. Cấu nghĩa là dung nạp. Khi đã dung nạp rồi, đã thành bầy đàn rồi, tất phải nhóm họp. Tuỵ là nhóm họp.
46. Quẻ Địa Phong Thăng
Quẻ này Khôn là quái thượng, cũng là ngoại quái, Tốn là quái hạ, cũng là nội quái, Khôn tượng Địa , là đất, Tốn tượng Phong, là gió, nên gọi là Địa Phong Thăng. Sau quẻ Tuỵ, đến quẻ Thăng. Tuỵ là nhóm họp, phải phát triển. Thăng nghĩa là chồng lên nhau, Khôn là địa, Tốn cũng là mộc, cây ở dưới đất, tất phải mọc lên, lên càng lớn, lớn càng cao. Thế là thượng thăng. Nên đặt tên quẻ bằng Thăng.
47. Quẻ Trạch Thuỷ Khốn
Quẻ này Đoài là quái thượng, cũng là ngoại quái, Khảm là quái hạ, cũng là nội quái, Đoài tượng Trạch , là đầm, Khảm tượng Thuỷ, là nước, nên gọi là Trạch Thuỷ Khốn. Sau quẻ Thăng, đến quẻ Khốn. Thăng nghĩa là lên, nếu lên mãi không thôi, tất nhiên phải Khốn. Tỷ như: đã lên đến bậc cuối cùng mà cứ cố trèo lên, tất ngã mà chết. Khốn nghĩa là khốn khổ.
Theo về thể quẻ, trên quái thượng, nhị dương ở dưới nhất âm, ở quái hạ, nhất dương kẹp giữa nhị âm, thảy là dương cương bị âm nhu che khuất, quân tử bị tiểu nhân kìm kẹp, luôn rơi vào tình trạng khốn khổ. Nên đặt tên quẻ Khốn.

48. Quẻ Thuỷ Phong Tỉnh
Quẻ này Khảm là quái thượng, cũng là ngoại quái, Tốn là quái hạ, cũng là nội quái, Khảm tượng Thuỷ, là nước, Tốn tượng Phong, là gió, nên gọi là Thuỷ Phong Tỉnh. Sau quẻ Khốn, đến quẻ Tỉnh. Thăng nghĩa là lên, nếu lên mãi không thôi, tất nhiên phải Khốn. Khốn từ vị trí cao dễ rơi, mà rơi vào vị trí “thế năng”. Tỉnh nghĩa là giếng, chốn thấp hơn hết.
Theo về tượng quẻ, Khảm là nước, Tốn tượng gỗ, tượng của quẻ như múc nước giếng.

Ý nghĩa thứ tự 64 quẻ trong Kinh Dịch (phần 2)

49. Quẻ Trạch Hoả Cách
Quẻ này Đoài là quái thượng, cũng là ngoại quái, Ly là quái hạ, cũng là nội quái, Đoai tượng Trạch, là đầm, Ly tượng Hoả, là lửa, nên gọi là Trạch Hoả Cách. Sau quẻ Tỉnh, đến quẻ Cách. Trên là quẻ Tỉnh, Tỉnh nghĩa là giếng, hễ nước giếng trữ lâu ngày, thời gợn bụi tích luỹ lại ngày càng nhiều, mà mất nguyên chất trong sạch. Nên đào giếng tất thường phải có Cách, nghĩa là tát sạch nước cũ đi để cho nước mạch mới ra, tục gọi là Khảo giếng, chính là nghĩa của chữ Cách. Vì Tỉnh dạo tất phải có Cách. Ý nghĩa của chữ Cách, chỉ là thay những giếng cũ làm ra giếng mới, có nghĩa là biến Cách, mà cũng gọi bằng cải Cách, canh Cách, nên học nghĩa Cáh là thay, Cách là đổi cũng thông, quẻ này đặt bằng Cách là vậy.
50. Quẻ Hoả Phong Đỉnh
Quẻ này Ly là quái thượng, cũng là ngoại quái, Tốn là quái hạ, cũng là nội quái, Ly tượng Hoả, là lửa, Tốn tượng Phong, là gió, nên gọi là Hoả Phong Đỉnh. Sau quẻ Cách, đến quẻ Đỉnh. Trên là quẻ Cách, Cách nghĩa là biến cách, biến cách được giống vật, không gì bằng Đỉnh. Đỉnh nghĩa là cái vạc, vạc dùng để nấu các giống, nấu đồ sống ra đồ chín, đổi giống cứng ra giống mềm, là công dụng cách được vật, mà dễ thấy nhất là Đỉnh.
Quẻ này đặt tên bằng Đỉnh với hai lý do:
Theo về tượng quẻ, dưới hết nét đứt là chân vạc, kế theo ba vạch liền là thân vạc, ruột đặc là đồ trữ trong vạc, nét đứt tiếp là tai vạc, nét liền trên cùng là đòn khiêng vạc.
Theo về nghĩa quẻ, dưới Tốn là mộc, trên Ly là hoả, mộc nằm dưới hoả như nghĩa là đốt, tượng như người ta nấu ăn, đồ nấu ăn lớn nhất chính là vạc. Thủ tượng và nghĩa nên gọi là quẻ Đỉnh.
51. Quẻ Bát Thuần Chấn
Quẻ này Chấn là quái thượng, cũng là quái hạ, nên gọi là Bát Thuần Chấn. Sau quẻ Đỉnh, đến quẻ Chấn. Đỉnh là giống trọng khí, làm chủ trọng khí không ai bằng con trai trưởng. Con trai trưởng tức là Chấn.
Quẻ Chấn là quẻ nhất dương dưới nhị âm, tượng Chấn là sấm, nghĩa Chấn là động, một hào sơ quẻ Càn giao hoán với Khôn thay hào sơ quẻ Khôn mà thành Chấn, nên gọi Chấn là trưởng nam.
52. Quẻ Bát Thuần Cấn
Quẻ này Cấn là quái thượng, cũng là quái hạ, nên gọi là Bát Thuần Cấn. Sau quẻ Chấn, đến quẻ Cấn. Chấn là động, vật lý không lẽ cứ động mãi, động đến lúc phải dừng.Cấn là dừng, Cấn cũng là núi, núi là giống chỉ đứng yên một chỗ, lặng mà dừng. Nguyên gốc quẻ Khôn, nét thứ ba của quẻ Càn thế chỗ quẻ Khôn biến thành dương, thành quẻ Cấn, một nét dương trên hai nét âm, dương tiến đến cùng phải dừng, hai âm dưới vẫn lặng, trên dừng, dưới lặng. Đó là quẻ Cấn.
53. Quẻ Phong Sơn Tiệm
Quẻ này Tốn là quái thượng, cũng là ngoại quái, Cấn là quái hạ, cũng là nội quái. Tốn tượng Phong, là gió, Cấn tượng Sơn, là núi, nên gọi là Phong Sơn Tiệm. Sau quẻ Cấn, đến quẻ Tiệm. Cấn là dừng, Tiệm là tiến có quy luật và giới hạn. Dừng rồi phải tiến. Quẻ này trên Tốn, dưới Cấn, tượng là gió cây trên núi.
54. Quẻ Lôi Trạch Quy Muội
Quẻ này Chấn là quái thượng, cũng là ngoại quái, Đoài là quái hạ, cũng là nội quái. Chấn tượng Lôi, là sấm, Đoài tượng Trạch, là đầm, nên gọi là Lôi Trạch Quy Muội. Sau quẻ Tiệm, đến quẻ Quy Muội. Tiệm là tiến, tiến tất phải có nơi chốn, tựa như người đi đường, phải có mục đích, địa chỉ. Địa chỉ đây chính là Quy Muội. Quy Muội nghĩa là người con gái gả về nhà chồng, Muội là người con gái nhỏ, cũng nghĩa là người con gái em, theo nghĩa này chính là “vợ bé”, “vợ lẽ”.
Quẻ này Chấn trên, Đoài dưới, là thiếu nữ theo với trưởng nam. Chấn có tính động, Đoài có tính duyệt, thành tượng thiếu nữ theo về trưởng nam. Tên quẻ Quy Muội.

55. Quẻ Lôi Hoả Phong
Quẻ này Chấn là quái thượng, cũng là ngoại quái, Ly là quái hạ, cũng là nội quái. Chấn tượng Lôi, là sấm, Ly tượng Hoả, là lửa, nên gọi là Lôi Hoả Phong. Sau quẻ Quy Muội, đến quẻ Phong. Quy là về, hễ việc gì có chốn quy kết, hay có kết quả đều gọi là “đắc kỳ sở quy”. Đác kỳ sở quy tất nhiên thịnh lớn. Phong nghĩa là thịnh, cũng nghĩa là lớn. Đó là sự biến hoá mang nghĩa Dịch.
Theo về thể quẻ, trên Chấn, dưới Ly. Chấn động, Ly minh, động mà minh, thảy đều là phương pháp làm cho thịnh đạt. Đó chính là nghĩa của Phong.
56. Quẻ Hoả Sơn Lữ
Quẻ này Ly là quái thượng, cũng là ngoại quái, Cấn là quái hạ, cũng là nội quái. Ly tượng Hoả, là lửa, Cấn tượng Sơn, là núi, nên gọi là Hoả Sơn Lữ. Sau quẻ Phong, đến quẻ Lữ.. Phong nghĩa là thịnh, cũng nghĩa là lớn. Thịnh cực tắc biến, tất đến nỗi mất chốn mà đi ở độ. Lữ nghĩa là bỏ nhà mà đi ra ngoài làm khách
Theo về thể quẻ, trên Hoả, dưới Sơn. Sơn dừng mà Hoả bốc, cho nên Hoả trên Sơn chỉ là cach ở độ, làm khách mà thôi, nên gọi là Lữ.

Ý nghĩa thứ tự 64 quẻ trong Kinh Dịch (phần 2)

57. Quẻ Bát Thuần Tốn

Quẻ này Tốn là quái thượng, cũng là quái hạ, nên gọi là Bát thuần Tốn. Sau quẻ Lữ, đến quẻ Tốn.
Lữ nghĩa là bỏ nhà mà đi ra ngoài làm khách, đi làm khách phải có chốn dung thân, phải dùng cách thuận mới nhập được người. Tốn nghĩa là thuận, cũng nghĩa là vào. Tốn chính là phương pháp trong lúc Lữ.
Theo về thể quẻ, nhất âm ở dưới thuận tòng nhị dương ở trên, nên gọi là Tốn.
58. Quẻ Bát Thuần Đoài
Quẻ này Đoài là quái thượng, cũng là quái hạ, nên gọi là Bát thuần Đoài. Sau quẻ Tốn, đến quẻ Đoài. Tốn nghĩa là thuận, cũng nghĩa là vào. Đoài là hoà duyệt. Khi đã vào rồi phải hoà duyệt. Có tương nhập thời mới tương duyệt.
Ở trong xã hội, vô luận hạng người nào với hạng người nào, tất trước phải dần dà ngầm thấm, có ăn vào với nhau mới sinh hoà duyệt, mà được hiệu quả đồng tâm. Vậy nên muốn hoà duyệt quần chúng, phải thâm nhập quần chúng. Đoài duyệt sau Tốn nhập, ý nghĩa rất hay.
59. Quẻ Phong Thuỷ Hoán
Quẻ này Tốn là quái thượng, cũng là ngoại quái, Khảm là quái hạ, cũng là nội quái. Tốn tượng Phong, là gió, Khảm tượng Thuỷ, là nước, nên gọi là Phong Thuỷ Hoán. Sau quẻ Đoài, đến quẻ Hoán. Đoài nghĩa là duyệt, duyệt đến cực rồi, tất đến nỗi ly tán, đấy là một nghĩa, thường tình người ta , lúc lo buồn thời khí uất kiết, , mà khi duyệt lạc thời khí thư tán, lại là một nghĩa, thảy là nghĩa duyệt rồi mà tán. Hoán nghĩa là tan tác.
Theo về tượng quẻ, Tốn trên Khảm dưới, gió trên nước, nước đụng gió, hoán tán lung tung.
60. Quẻ Thuỷ Trạch Tiết
Quẻ này Khảm là quái thượng, cũng là ngoại quái, Đoài là quái hạ, cũng là nội quái. Khảm tượng Thuỷ, là nước, Đoài tượng Trạch, là đầm, nên gọi là Thuỷ Trạch Tiết. Sau quẻ Hoán, đến quẻ Tiết. Hoán nghĩa là tan tác. Vật không thể tan tác mãi, đến lúc phải hạn chế. Tiết là tiết chế, tiết kiệm.
61. Quẻ Phong Trạch Trung Phu
Quẻ này Tốn là quái thượng, cũng là ngoại quái, Đoài là quái hạ, cũng là nội quái. Tốn tượng Phong, là gió, Đoài tượng Trạch, là đầm, nên gọi là Phong Trạch Trung Phu. Sau quẻ Tiết, đến quẻ Trung Phu. Tiết là tiết chế, tiết kiệm. Đã định ra Tiết chế, thì người trên tín thủ, người dưới đồng lòng, Tiết chẳng thể giả dối mà xong, vậy nên phải Trung Phu. Trung Phu là đức tin chứa ở trong lòng.
Theo về thể quẻ, quẻ này hạ quái hai hào dương ở dưới, thượng quái hai hào dương ở trên, tất đều trung trực, ở giữa hai hào âm, trung hư. Trung hư là trong lòng không trộn vào tư dục, trung thực là trong lòng chứa đầynhững chân tình.
Vì trung hư nên trong lòng không có tiên nhập vi chủ. Vì trung thực nên trong lòng không có hư nguỵ trộn vào, mà làm được chất có tín. Đủ cả hai tên ấy mới đặt nghĩa quẻ bằng Trung Phu.
Phu nghĩa là tin, tin có gốc trong lòng, tin ấy mới tuyệt vời làm sao.
62. Quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá
Quẻ này Chấn là quái thượng, cũng là ngoại quái, Cấn là quái hạ, cũng là nội quái. Chấn tượng Lôi, là gió, Cấn tượng Sơn, là núi, nên gọi là Lôi Sơn Tiểu Quá. Sau quẻ Trung Phu, đến quẻ Tiểu Quá. Trung Phu là đức tin chứa ở trong lòng. Nhưng cậy ở mình tin đó mà tất làm ngay, làm mà không dò xét tin đó phải hay chăng, tất mắc lấy lầm lỗi, Vậy nên sau quẻ Trung Phu, đến quẻ Tiểu Quá.
Chữ Tiểu Quá có ba nghĩa: Một nghĩa cái đó có ý quá, một là việc nhỏ có quá, một nghĩa là quá chút. Tiểu quá là việc nhỏ nên làm.
63. Quẻ Thuỷ Hoả Ký Tế
Quẻ này Khảm là quái thượng, cũng là ngoại quái, Ly là quái hạ, cũng là nội quái. Khảm tượng Thuỷ, là nước, Ly tượng Hoả, là lửa, nên gọi là Thuỷ Hoả Ký Tế. Sau quẻ Tiểu Quá, đến quẻ Ký Tế.
64. Quẻ Hoả Thuỷ Vị Tế
Quẻ này Ly là quái thượng, cũng là ngoại quái, Khảm là quái hạ, cũng là nội quái. Ly tượng Hoả, là lửa, Khảm tượng Thuỷ, là nước, nên gọi là Hoả Thuỷ Vị Tế. Sau quẻ Ký Tế, đến quẻ Vị Tế.

Bây giờ giải thích vị Ký Tế và Vị Tế.
Khi vào thế Tiểu Quá, hễ có tài đức quá hơn người, việc dù quá nhỏ quá lớn mặc dầu, nhưng đã quá nhân bằng việc gì, tất làm nên việc ấy. Nên quẻ tiếp theo là Ký Tế, Tế nghĩa là làm nên, cũng nghĩa vượt được qua. Như nói: tế sự, tế vật là thuộc nghĩa Tế là nên, còn nói: tế xuyên, tế hiểm... nghĩa là nói việc đã qua.
Ký là việc hiện thành rồi, ở trước khi Ký Tế đã từng trải qua hai thời kỳ:
Một thời kỳ còn lộn xộn, rối ren, việc gì không ra việc gì, ấy gọi là Vị Tế.
Lại dấn thêm nữa là kỳ loạn chi cực, mà toan bước vào trị, tắc chi cực mà toan bước tới thông, thời kỳ ấy gọi là Tương Tế, đã trải qua hai thời kỳ ấy rồi mà loạn hết mà trị, tắt khỏi mà thông. Lúc bấy giờ việc gì cũng thấy đã thu thành, việc gì cũng thấy đã chỉnh đốn, thì kỳ ấy gọi bằng Ký Tế.

Chúng ta đã “dạo qua” 64 quẻ Kinh Dịch, khởi đầu Càn, Khôn (Trời, Đất), mọi vật được hình thành từ Trời, Đất, đúng hơn là sự giao hoà giữa Trời cương kiện và Đất nhu thuận. Đạo trời như bánh xe lăn, mọi vật thiên địa, nhân sự thay đổi. Kết thúc 64 quẻ là Vị Tế, lại khởi đầu thời kỳ lộn xộn rối ren, mà trước đó đã Ký Tế (việc đã thành). Đó chính là Dịch.
Trong số đó có 4 quẻ tuần hoàn, tương phản, mà lại tiếp tục nhau chỉ có 4 quẻ: Địa Thiên Thái, Thiên Địa Bỉ, Thuỷ Hoả Ký Tế và Hoả Thuỷ Vị Tế.
Thiên địa giáo có Địa Thiên Thái
Thiên địa bất giáo có Thiên Địa Bỉ.
Thuỷ hoả giáo có Thuỷ Hoả Ký Tế.
Thuỷ hoả bất giáo có Hoả Thuỷ Vị Tế.
Nhưng lúc đầu sang Ký Tế chính mà lúc thiên địa đã giao rồi, vì thiên địa giao nên thuỷ hoả mới giao, thế là Thái và Ký Tế cùng trong một vận hội, liên đới nhau, Thái có trước, Ký Tế có sau, thời gianxee dịch ít nhiều mà thôi. Cũng vậy vì trị cực mà loạn xảy ra, vì thông cực mà tắc quay lại, bấy giờ thuỷ hoả bất tương giao mà thành ra Vị Tế, nhưng lúc đầu vào thì Vị Tế thì trước đó đã có Bỉ rồi, vì thiên địa bất tương giao mà thuỷ hoả bất tương giao, vì thế nên Bỉ và Vị Tế liên đới nhau trong một vận hội, chỉ xê dịch thời gian mà thôi.

công


Tin liên quan

Chia sẻ bài viết: 



Bình luận:

Hỗ trợ trực tuyến

Lê Công

0369.168.366

Nhà đất bán theo tỉnh thành
Nhà đất cho thuê theo tỉnh thành
Kinh Dịch
Tử vi
Huyền không Phi Tinh
Văn Hóa_Tín Ngưỡng
Thước lỗ Ban
Xen ngày tốt
Kinh Dịch
TIN NỔI BẬT

LÊ LƯƠNG CÔNG

Trụ sở: Số 31 - Mương An Kim Hải - Kenh Dương, Le Chan, Hai Phong

Tel: 0369168366 - Hotline: 0919.168.366 - Email: nhadatcongminh@gmail.com

Copyright © 2019 https://leluongcong.com/